Gs Stanly Fields chuyên môn khoa học di thể tại Đại Học Washington thay đổi kỹ thuật nghiên cứu bạch đản trong môi trường cấy. Mục đích chính là muốn tìm hiểu bạch đản phản ứng tương tác vơí nhau như thế nào. Đặc biệt nghiên cứu bạch đản ký sinh trùng sốt rét phản ứng tương tác vơí bạch đản trong hồng huyết cầu của bệnh nhân bị sốt rét.
Ký sinh trùng sốt rét có 4 giai đoạn trong một chu kỳ, nhưng các khoa học gia chú ý chu kỳ bạch đản sốt rét phản ứng khi nhiễm tế bào máu đỏ bệnh nhân gây: sốt nóng, run lạnh, nhức đầu, bắp thịt đau đớn, và một vài triệu chứng khác. Phân tử bạch đản ký sinh trùng sốt rét chỉ hoạt hóa trong thơì điểm tấn công hồng huyết cầu.
Trong giai đoạn ký sinh trùng sốt rét không sinh sản, nhiều bạch đản tìm thấy trong ký sinh trùng sốt rét nhưng thấy trong những sinh vật khác. Phân tử ngoài màng tế bào ký sinh trùng sốt rét chỉ phản ứng tương tác với màng tế bào khi nhiễm hồng huyết cầu hay sinh sản.
Phân tử bạch đản đặc biệt gây phản ứng tương tác khi nhiễm hồng huyết cầu không thấy trong những sinh vật khác, như dun, ruồi, nấm mốc hay ngay cả vi trùng H. Pylori gây bệnh lở loét bao tử của bệnh nhân. Khám phá phân tử bạch đản đặc biệt trong ký sinh gây bệnh sốt rét khi nhiễm hồng huyết cầu bệnh nhân, rồi sinh sản, khuyến cáo nguyên tắc mơí sáng chế thuốc trị sốt rét. (Nature, 3 November 2005).
- Ký Sinh Trùng Sốt Rét Thay Đổi Di Thể (Gene) Trong Lúc Xâm Nhập Cơ Thể Con Người
Khoa học gia Alan F. Cowman cùng các đồng nghiệp thuộc Trung Tâm Khảo Cứu Y Khoa Howard Hughes chứng minh một di thể mới trong ký sinh trùng sốt rét Malaria Falciparum thay đổi trong lúc xâm nhập cơ thể con người.
Ký sinh trùng M. Falciparum xâm nhập hồng huyết cầu qua một thụ thể bạch đản nằm ngoài mặt hồng huyết cầu. Thụ thể chứa một chất đường gọi là Sialic acid. Nếu loại bỏ Sialic acid thì ký sinh trùng sốt rét không thể nào lọt vào trong hồng huyết cầu.
Các khoa học gia khám phá 2 di thể hoạt động khác nhau trong 2 trường hợp ký sinh trùng sốt rét:
1) Trường hợp dùng sialic acid.
2) Trường hợp không dùng sialic acid. Khi ký sinh trùng sốt rét P. Falciparum dùng di thể thứ nhất (PfRh4) thì ký sinh trùng có thể chui được vào hồng huyết cầu. Khi ký sinh trùng sốt rét có di thể thứ 2 là EBA165, tự mình không sinh sản đươc bạch đản, nhưng khi dính vơí PFRH4, thì có thể hoạt động được.
Kết quả nghiên cứu khuyến cáo một phương thức sáng chế thuốc chủng mới ngừa sốt rét hay thuốc trị sốt rét căn cứ theo khám phá ký sinh trùng sốt rét dùng di thể PfRh4 thay đổi khác nhau khi tìm cách xâm nhập vào hồng huyết cầu, theo những phương cách khác nhau. (Science, August 26, 2005).
(Bàn thêm: Bệnh sốt rét do 4 ký sinh trùng gây ra:
1)Sốt rét do Malaria Falciparum thường thấy ở những nước vùng nhiệt đới. Bệnh nguy hiểm, có thể gây tử vong trong vài ngày. Ký sinh trùng sốt rét M. Falciparium kháng nhiều thứ thuốc (chloroquine).
2) Ký sinh trùng P. Vivax và P. Malariae gây sốt rét tại những nước vùng nhiệt đới, đặc biệt P. Ovale thấy nhiều nhất ở miền Tây Phi Châu. Nhiễm những ký sinh sốt rét này tương đối không nguy hiểm lắm vì trong vài trường hợp chỉ cần thời gian là có thể khỏi bệnh.
Bệnh sốt rét do P. Vivax, P. Malariae và P.Ovale thường không kháng sinh mạnh bằng P. Falciparum. Tuy nhiên riêng đối vơí 2 ký sinh trùng sốt rét P. Vivax và P. Ovale, vì có thể xâm nhập vào gan, nên cần thuốc trị ký sinh trùng trong gan để tránh bệnh tái phát. Bệnh sốt rét truyền vào người qua muỗi Anopheles. Khi muỗi cắn người đang bị sốt rét sẽ truyền bệnh từ người này sang người khác.
Phần lớn những người bị bệnh sốt rét ở Mỹ sau khi họ du lịch từ nước ngoài trở về Mỹ. Người Việt hải ngoại khi du lịch tại những nước có bệnh sốt rét nên uống thuốc ngừa sốt rét, nhưng phải hỏi ý kiến bác sĩ gia đình, vì nhiều thuốc ngừa sốt rét gây phản ứng phụ, đôi khi nguy hiểm).
Thuốc mới chủng ngừa Sốt Rét Malaria
Sốt rét Malaria là thứ bệnh nguy hiểm bậc nhất của loài người hiện nay. Từ 5-10% dân số trên thế giới bị bệnh sốt rét, nhiều nhất ở Phi Châu, Á châu và đặc biệt ở Đông Nam Á Châu, kể cả tại Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn, khảo cứu gia tại Đại Học UNSW (Sydney) và Viện Nghiên cứu Garvan, Úc Châu, thì hiện nay số người trên thế bị sốt rét rất cao, chắc cũng phải ¼ dân số trên thế giới, tức là hàng tỷ người.
Theo Cơ Quan Y Tế Quốc Tế thì mỗi năm, hơn một triệu người trên thế giới bị chết vì sốt rét. Cũng theo Tiến sĩ Tuấn thì hiện nay tỉ số dân bị sốt rét ở Việt Nam là 16 phần ngàn (16/1000). Mặc dù bây giờ, thuốc chống sốt rét đang thịnh hành như chloroquine, nhưng thuốc càng ngày càng bị kháng sinh, tức là bị ký sinh trùng sốt rét càng ngày càng quen thuốc. Khảo cứu phương cách trừ sốt rét là việc làm rất quan trọng cho nhân loại. Trước đây đã có vài thứ thuốc chủng ngừa sốt rét, nhưng chưa được thành công. Hiện giờ nguyên tác thuốc chủng ngừa sốt rét đang thử nghiệm cho chuột tìm cách giảm độc tố phát sinh từ ký sinh trùng sốt rét.
Thực vậy, chìa khóa của thử nghiệm mới này là tìm một phân tử ly' tưởng để có thể kích thích hệ thống miễn nhiễm sinh ra chất chống lại mầm bệnh sốt rét.
Năm 1986, Camillo Golgi đã giả thuyết ký sinh trùng sốt rét sinh sản độc tố gây từng cơn nóng. Năm 1993, Louis Schofield tường trình độc tố glycoylphosphatidyllinositol (GPI) gây bệnh sốt rét cho chuột đồng dạng với độc tố số rét trong người. GPI là glycolipid, một phân tử bao gồm đường và mỡ, tương tự như cấu tạo màng tế bào. Schofield khám phá chuỗi glycan, một phân tử nồng cốt trong GIP, là phân tử có chức năng như một độc tố.
Do đó, glycan được coi là yếu tố căn bản để điều chế thuốc chủng ngừa sốt rét. Chuyên gia tìm cách móc nối Glycan với những phân tử lớn hơn để hệ thống miễn nhiễm dễ nhận ra và có phản ứng.
Trong loạt thử nghiệm tế bào sơ khởi, thuốc chủng chống GPI đã kích thích được hệ thống miễn nhiễm sản xuất kháng thể trong chuô.t. Hơn nữa đại thực bào (macrophages) từ chuột sau khi chích thuốc chủng GPI có hiệu lực giảm phản ứng miễn nhiễm chống ký sinh trùng sốt rét. Thuốc chủng có khả năng giảm 3 biến chứng bệnh sốt rét:
1) Giảm độ axít trong máu.
2) Giảm phổi thũng nước.
3) Giảm hội chứng não do ký sinh trùng sốt rét làm tắc nghẽn động mạch máu não.
Trong vòng vài năm nữa, các chuyên gia hy vọng sẽ dùng thuốc chủng chống GPI thử nghiệm trong súc vật bị sốt rét, và hy vọng sau đó sẽ dùng cho người. Thuốc chủng cũng sẽ áp dụng được cho trẻ em bởi vì kháng thể rất đặc hiệu (specific) chống GPI ký sinh trùng sốt rét, và không ảnh hưởng tới GPI của loài người.
Đây là điểm quan trọng, vì lẽ trẻ em sẽ có kháng thể chống được sốt rét. Chín chục phần trăm (90%) bệnh nhân trên thế giới chết vì sốt rét là trẻ em.
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P., Điện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/; www.KhoaHoc.Net