Hôm nay,  

Nghiên Cứu Bệnh Sốt Rét: 90% Tử Vong Là Trẻ Em

12/11/200500:00:00(Xem: 6466)
Khám Phá Phân Tử Bạch Đản Nguy Hiểm Nhất Trong Ký Sinh Trùng Sốt Rét.

Gs Stanly Fields chuyên môn khoa học di thể tại Đại Học Washington thay đổi kỹ thuật nghiên cứu bạch đản trong môi trường cấy. Mục đích chính là muốn tìm hiểu bạch đản phản ứng tương tác vơí nhau như thế nào. Đặc biệt nghiên cứu bạch đản ký sinh trùng sốt rét phản ứng tương tác vơí bạch đản trong hồng huyết cầu của bệnh nhân bị sốt rét.

Ký sinh trùng sốt rét có 4 giai đoạn trong một chu kỳ, nhưng các khoa học gia chú ý chu kỳ bạch đản sốt rét phản ứng khi nhiễm tế bào máu đỏ bệnh nhân gây: sốt nóng, run lạnh, nhức đầu, bắp thịt đau đớn, và một vài triệu chứng khác. Phân tử bạch đản ký sinh trùng sốt rét chỉ hoạt hóa trong thơì điểm tấn công hồng huyết cầu.

Trong giai đoạn ký sinh trùng sốt rét không sinh sản, nhiều bạch đản tìm thấy trong ký sinh trùng sốt rét nhưng thấy trong những sinh vật khác. Phân tử ngoài màng tế bào ký sinh trùng sốt rét chỉ phản ứng tương tác với màng tế bào khi nhiễm hồng huyết cầu hay sinh sản.

Phân tử bạch đản đặc biệt gây phản ứng tương tác khi nhiễm hồng huyết cầu không thấy trong những sinh vật khác, như dun, ruồi, nấm mốc hay ngay cả vi trùng H. Pylori gây bệnh lở loét bao tử của bệnh nhân. Khám phá phân tử bạch đản đặc biệt trong ký sinh gây bệnh sốt rét khi nhiễm hồng huyết cầu bệnh nhân, rồi sinh sản, khuyến cáo nguyên tắc mơí sáng chế thuốc trị sốt rét. (Nature, 3 November 2005).

- Ký Sinh Trùng Sốt Rét Thay Đổi Di Thể (Gene) Trong Lúc Xâm Nhập Cơ Thể Con Người

Khoa học gia Alan F. Cowman cùng các đồng nghiệp thuộc Trung Tâm Khảo Cứu Y Khoa Howard Hughes chứng minh một di thể mới trong ký sinh trùng sốt rét Malaria Falciparum thay đổi trong lúc xâm nhập cơ thể con người.

Ký sinh trùng M. Falciparum xâm nhập hồng huyết cầu qua một thụ thể bạch đản nằm ngoài mặt hồng huyết cầu. Thụ thể chứa một chất đường gọi là Sialic acid. Nếu loại bỏ Sialic acid thì ký sinh trùng sốt rét không thể nào lọt vào trong hồng huyết cầu.

Các khoa học gia khám phá 2 di thể hoạt động khác nhau trong 2 trường hợp ký sinh trùng sốt rét:

1) Trường hợp dùng sialic acid.

2) Trường hợp không dùng sialic acid. Khi ký sinh trùng sốt rét P. Falciparum dùng di thể thứ nhất (PfRh4) thì ký sinh trùng có thể chui được vào hồng huyết cầu. Khi ký sinh trùng sốt rét có di thể thứ 2 là EBA165, tự mình không sinh sản đươc bạch đản, nhưng khi dính vơí PFRH4, thì có thể hoạt động được.

Kết quả nghiên cứu khuyến cáo một phương thức sáng chế thuốc chủng mới ngừa sốt rét hay thuốc trị sốt rét căn cứ theo khám phá ký sinh trùng sốt rét dùng di thể PfRh4 thay đổi khác nhau khi tìm cách xâm nhập vào hồng huyết cầu, theo những phương cách khác nhau. (Science, August 26, 2005).

(Bàn thêm: Bệnh sốt rét do 4 ký sinh trùng gây ra:

1)Sốt rét do Malaria Falciparum thường thấy ở những nước vùng nhiệt đới. Bệnh nguy hiểm, có thể gây tử vong trong vài ngày. Ký sinh trùng sốt rét M. Falciparium kháng nhiều thứ thuốc (chloroquine).

2) Ký sinh trùng P. Vivax và P. Malariae gây sốt rét tại những nước vùng nhiệt đới, đặc biệt P. Ovale thấy nhiều nhất ở miền Tây Phi Châu. Nhiễm những ký sinh sốt rét này tương đối không nguy hiểm lắm vì trong vài trường hợp chỉ cần thời gian là có thể khỏi bệnh.

Bệnh sốt rét do P. Vivax, P. Malariae và P.Ovale thường không kháng sinh mạnh bằng P. Falciparum. Tuy nhiên riêng đối vơí 2 ký sinh trùng sốt rét P. Vivax và P. Ovale, vì có thể xâm nhập vào gan, nên cần thuốc trị ký sinh trùng trong gan để tránh bệnh tái phát. Bệnh sốt rét truyền vào người qua muỗi Anopheles. Khi muỗi cắn người đang bị sốt rét sẽ truyền bệnh từ người này sang người khác.

Phần lớn những người bị bệnh sốt rét ở Mỹ sau khi họ du lịch từ nước ngoài trở về Mỹ. Người Việt hải ngoại khi du lịch tại những nước có bệnh sốt rét nên uống thuốc ngừa sốt rét, nhưng phải hỏi ý kiến bác sĩ gia đình, vì nhiều thuốc ngừa sốt rét gây phản ứng phụ, đôi khi nguy hiểm).

Thuốc mới chủng ngừa Sốt Rét Malaria

Sốt rét Malaria là thứ bệnh nguy hiểm bậc nhất của loài người hiện nay. Từ 5-10% dân số trên thế giới bị bệnh sốt rét, nhiều nhất ở Phi Châu, Á châu và đặc biệt ở Đông Nam Á Châu, kể cả tại Việt Nam.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn, khảo cứu gia tại Đại Học UNSW (Sydney) và Viện Nghiên cứu Garvan, Úc Châu, thì hiện nay số người trên thế bị sốt rét rất cao, chắc cũng phải ¼ dân số trên thế giới, tức là hàng tỷ người.

Theo Cơ Quan Y Tế Quốc Tế thì mỗi năm, hơn một triệu người trên thế giới bị chết vì sốt rét. Cũng theo Tiến sĩ Tuấn thì hiện nay tỉ số dân bị sốt rét ở Việt Nam là 16 phần ngàn (16/1000). Mặc dù bây giờ, thuốc chống sốt rét đang thịnh hành như chloroquine, nhưng thuốc càng ngày càng bị kháng sinh, tức là bị ký sinh trùng sốt rét càng ngày càng quen thuốc. Khảo cứu phương cách trừ sốt rét là việc làm rất quan trọng cho nhân loại. Trước đây đã có vài thứ thuốc chủng ngừa sốt rét, nhưng chưa được thành công. Hiện giờ nguyên tác thuốc chủng ngừa sốt rét đang thử nghiệm cho chuột tìm cách giảm độc tố phát sinh từ ký sinh trùng sốt rét.

Thực vậy, chìa khóa của thử nghiệm mới này là tìm một phân tử ly' tưởng để có thể kích thích hệ thống miễn nhiễm sinh ra chất chống lại mầm bệnh sốt rét.

Năm 1986, Camillo Golgi đã giả thuyết ký sinh trùng sốt rét sinh sản độc tố gây từng cơn nóng. Năm 1993, Louis Schofield tường trình độc tố glycoylphosphatidyllinositol (GPI) gây bệnh sốt rét cho chuột đồng dạng với độc tố số rét trong người. GPI là glycolipid, một phân tử bao gồm đường và mỡ, tương tự như cấu tạo màng tế bào. Schofield khám phá chuỗi glycan, một phân tử nồng cốt trong GIP, là phân tử có chức năng như một độc tố.

Do đó, glycan được coi là yếu tố căn bản để điều chế thuốc chủng ngừa sốt rét. Chuyên gia tìm cách móc nối Glycan với những phân tử lớn hơn để hệ thống miễn nhiễm dễ nhận ra và có phản ứng.

Trong loạt thử nghiệm tế bào sơ khởi, thuốc chủng chống GPI đã kích thích được hệ thống miễn nhiễm sản xuất kháng thể trong chuô.t. Hơn nữa đại thực bào (macrophages) từ chuột sau khi chích thuốc chủng GPI có hiệu lực giảm phản ứng miễn nhiễm chống ký sinh trùng sốt rét. Thuốc chủng có khả năng giảm 3 biến chứng bệnh sốt rét:

1) Giảm độ axít trong máu.

2) Giảm phổi thũng nước.

3) Giảm hội chứng não do ký sinh trùng sốt rét làm tắc nghẽn động mạch máu não.

Trong vòng vài năm nữa, các chuyên gia hy vọng sẽ dùng thuốc chủng chống GPI thử nghiệm trong súc vật bị sốt rét, và hy vọng sau đó sẽ dùng cho người. Thuốc chủng cũng sẽ áp dụng được cho trẻ em bởi vì kháng thể rất đặc hiệu (specific) chống GPI ký sinh trùng sốt rét, và không ảnh hưởng tới GPI của loài người.

Đây là điểm quan trọng, vì lẽ trẻ em sẽ có kháng thể chống được sốt rét. Chín chục phần trăm (90%) bệnh nhân trên thế giới chết vì sốt rét là trẻ em.

Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P., Điện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/; www.KhoaHoc.Net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bước tiến lớn tiếp theo trong điều trị ung thư có thể là vắc xin. Sau nhiều thập niên miệt mài làm việc, các khoa học gia cho biết nghiên cứu đã đạt đến một bước ngoặt quan trọng, dự đoán sẽ có thêm nhiều loại vắc xin trong 5 năm tới. Tuy nhiên, đây không phải là những loại vắc xin truyền thống giúp ngăn ngừa bệnh tật, mà là những mũi tiêm để giúp thu nhỏ khối u và ngăn chặn ung thư tái phát. Các phương pháp điều trị thử nghiệm này nhắm mục tiêu vào những loại ung thư như ung thư vú và ung thư phổi, nhưng cũng đã có một số thành tựu đối với ung thư tế bào hắc tố (melanoma) và ung thư tụy tạng được thử nghiệm trong năm nay.
Đa xơ cứng, (Multiple Sclerosis, MS), là một bệnh thần kinh thường bắt đầu ở độ tuổi từ 20 đến 40. Bệnh này phổ biến ở phụ nữ hơn ở nam giới. Bệnh đa xơ cứng xảy ra do hệ thống miễn dịch rối loạn tấn công nhầm vào não và tủy sống. Mặc dù có những điều trị mới và hiệu quả hơn, hầu hết những người bị chứng bệnh này vẫn ngày càng bệnh nặng hơn theo thời gian.
Quý vị có thường bị đau lưng mỗi khi bị cúm, cảm lạnh, hay khi bị COVID? Đau lưng là triệu chứng khá phổ biến ở nhiều loại bệnh. Nó không phải là một triệu chứng kiểu hên xui, mà là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa hệ thống miễn dịch và não, được gọi là “khớp thần kinh miễn dịch” (neuroimmune synapse). Khi ta bị bệnh, kết quả của ‘cuộc trò chuyện’ giữa hệ thống miễn dịch và não bộ khá là thú vị, bởi vì sự chú ý sẽ được tập trung đặc biệt ở vùng lưng dưới. Đây là một trong những vùng nhạy cảm nhất của cơ thể trước các mối đe dọa đối với miễn dịch thần kinh (neuroimmune).
Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, người Việt Nam tạo nên một cộng đồng hải ngoại chừng trên 4 triệu người, tương đương với dân số của New Zealand. Cuộc bùng nổ dân số ra hải ngoại này cũng gây nhiều ly tán, con cái thất lạc cha mẹ. Nhờ các tiến bộ về công nghệ gien và DNA chúng ta được chứng kiến những cuộc tái ngộ, đoàn tụ tưởng như không bao giờ có được, đặc biệt là những người con lai “mồ côi” tìm lại được người cha quân nhân Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam sau gần 50 năm. Chúng ta thử tìm hiểu những tiến bộ về lĩnh vực thử máu hay DNA để thiết lập quan hệ cha-con trên bình diện sinh học.
Mùa thu năm ngoái, số liệu thống kê liên bang cho thấy mức tuổi thọ trung bình của người dân Hoa Kỳ năm 2021 đã giảm hai năm liên tiếp. Dễ thấy rằng nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất là do COVID-19. Đại dịch tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của hơn 1 triệu người ở Hoa Kỳ. Mức tuổi thọ trung bình đã giảm trong hơn hai năm, và giảm gấp đôi ở những người gốc Tây Ban Nha, người gốc da đen và người Mỹ bản địa, khiến đất nước chúng ta thụt lùi lại hai thập niên. Đây cũng là mức giảm tuổi thọ trung bình đột ngột nhất kể từ Thế Chiến II.
Trong tuần này, Đức Giáo Hoàng, Pope Francis đã trải qua một ca phẫu thuật để loại bỏ một khối thoát vị ở vùng bụng khiến ngài đau đớn không thôi. Nó là một khối thoát vị từ vết mổ của các ca phẫu thuật trước đó, được gọi là thoát vị vết mổ (incisional hernia). Thoát vị (Hernia) khá phổ biến và có nhiều loại khác nhau. Không phải tất cả các loại thoát vị đều phải làm phẫu thuật. Vậy thoát vị thực sự là gì? Và nếu cần phải làm phẫu thuật thì thế nào?
Hoa Kỳ đang bước vào mùa bệnh “Lyme”, và nguy cơ lây nhiễm loại bệnh do bọ ve cắn đang gia tăng, đặc biệt là khi có một nửa số người dân hiện đang sống ở những nơi có bọ ve. Nếu không được điều trị bằng kháng sinh kịp thời, bệnh Lyme có thể gây ra các vấn đề về tim mạch và hệ thần kinh, viêm khớp và các biến chứng khác, khó mà chữa trị. Mặc dù nhiều loại vắc xin đang được phát triển, nhưng số ca nhiễm đã đạt đến mức độ nạn dịch ở Hoa Kỳ. Có khoảng 476,000 ca nhiễm Lyme được báo cáo mỗi năm, tiêu tốn khoảng 1 tỷ MK chi phí y tế.
Trầm cảm là một trong những căn bệnh lớn của thời đại. Hơn một phần ba phụ nữ và gần một phần tư đàn ông ở Thụy Điển bị trầm cảm vào một thời điểm nào đó trong đời. Đối với một số người, thì một sự kiện căng thẳng tâm lý nào đó gây ra trầm cảm, ở những người khác, bệnh dường như bùng phát một cách tự nhiên và với một số ít là do tác dụng phụ của thuốc.
Năm 2011, Gert-Jan Oskam đang sống ở Trung Quốc thì bị tai nạn xe máy, khiến ông bị liệt từ phần hông trở xuống. Giờ đây, với sự kết hợp của các máy móc thiết bị hiện đại, các khoa học gia đã giúp ông kiểm soát lại phần thân dưới của mình, theo trang NYTimes đưa tin vào cuối tháng 5 năm 2023.
Ngày 15 tháng 5 năm 2023, Cơ quan Y tế Quốc tế WHO đưa ra hướng dẫn mới nhất của họ về chất làm ngọt thay thế đường (non-sugar sweeteners) và khuyên không nên dùng các chất này để giảm cân. WHO đã tiến hành một cuộc đánh giá có hệ thống với 283 nghiên cứu về chất tạo vị ngọt mà không dùng đường. Nghiên cứu tổng quan này bao gồm cả các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và nghiên cứu quan sát (randomized controlled trials and observational studies).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.