Hôm nay,  

Tin Y Học Trong Tuần: Phụ Nữ Có Thai Hít Khói Thuốc Lá, Di Thể Bệnh Động Kinh

13/12/200800:00:00(Xem: 6236)
Tin Y Học Trong Tuần: Phụ Nữ Có Thai Hít Khói Thuốc Lá, Di Thể Bệnh Động Kinh
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô
Khám Phá Di Thể Bệnh Động Kinh
Bs Alex Bassauk và các đồng nghiệp thuộc Đại Học Y Khoa Iowa cho biết có 7 gia đình tại Trung Đông sống chung trong một trong 3 dòng họ. Trong số 47 người trong 3 dòng họ có tới 23 người bị bệnh động kinh co cứng bất chợt (myoclonus epilepsy), tiếp theo bị chứng mất thăng bằng không đứng vững.
Các khoa gia đã thử nghiệm đột biến cơ thể dùng cá zebrafish thí nghiệm. Mục đích là muốn tìm hiểu liệu đột biến di thể Prickcle1 có phải là nguyên nhân gây nguy cơ bệnh động kinh. Kết quả thử nghiệm gây nhiều ngạc nhiên về di thể Prickle1 vì trước đây chưa từng được biết di thể này liên hệ bệnh động kinh và cũng chưa từng được thấy trong những bệnh nào khác. Kết quả nghiên cứu khẳng định đột biến di thể Prickle1 tìm thấy trong dòng họ mang bệnh động kinh.
Trong một nghiên cứu khác, Bs Leanne Dibbens và các cộng sự viên cho biết đột biến di thể khác tên là PCDH19 gây bệnh EFMR. Đây là một bênh phụ nữ bị động kinh (epilepsy) và chứng tâm thần phát triển chậm. Khi phụ nữ khởi sự bị bệnh, trẻ em sơ sinh hay trẻ em bắt đầu khôn lớn lên cơn động kinh (seizures disorders). Nhận thức của bệnh nhân cũng bị yếu kém. Đột biến nằm trong nhiễm sắc thể X, còn gọi là Xq22. Các khoa học gia đã phân tích được chuỗi 737 di thể trong nhiễm sắc thể X trong bệnh nhân có dòng họ bị bệnh EFMR. Theo bản tin từ Epilepsy Foundation, nhiều khoa học gia Hoa Kỳ và Gia Nã Đại cũng đã khám phá được nhiều di thể liên hệ bệnh động kinh. Kết quả đã đăng trong báo Nature Genetics năm 2002. Ts Ruth Ottman cũng đã khám phá di thể LG11 trong 5 gia đình dòng họ bị động kinh. Các nghiên cứu gia Úc Châu đã khám phá một di thể liên hệ động kinh và làm cho bệnh nhân không thể có khả năng học hỏi. Đột biến di thể kể trên đã được nghiên cứu trong một số bệnh nhân tại Norway, Gia Nã Đại, Bỉ, và Úc Châu. Di thể kể trên cũng tìm thấy trong nhiễm sắc thể X. Tại Đại Học McGill, Gia Nã Đại, P. Cossette đã khám phá một di thể liên hệ động kinh trẻ em. Kết quả cho thấy nghiên cứu 14 bệnh nhân trong một dòng học người Gia Nã Đại gốc Pháp và đã khám phá được đột biến di thể GABRA1. Tham Khảo: 1) American Journal of Human Genetics, November 2008; 2) National Genetics, May 2008; 3) Epilepsy Foundation, 2002.

 Phụ Nữ Ngửi Khói Thuốc Lá Khó Thụ Thai
Bs Kenth Piazza thuộc Đại Học Y Khoa Rochester, Nữu Ước, nghiên cứu 4,800 phụ nữ, đã đặt những câu hỏi cho phụ nữ khi có thai, lúc muốn có thai, hay bị hư thai. Đồng thời cũng hỏi tiểu sử hút thuốc lá, đặc biệt trường hợp bệnh nhân hít thở khói thuốc khi sống gần những người đang hút thuốc. Kết quả cho biết 4/5 phụ nữ hít thở khói thuốc lá trong môi trường sống xung quanh và 50% phụ nữ hít khó thuốc khi sống trong gia đình bố mẹ đang hút thuốc lá. Kết quả cũng cho thấy khoảng 11% phụ nữ hít thở khói thuốc lá khó có thể thụ thai, và 1/3 phụ nữ bị hư thai một lần hay bị hư thai nhiều lần. 14% phụ nữ đã bị hư thai hoàn toàn hay không thể có thai được nữa. 26% phụ nữ gần những người thân trong gia đình hút thuốc lá khó có thể có bầu, và 39% phụ nữ bị nguy cơ sẩy thai.
Ngửi khói thuốc lá gây nguy cơ hư thai, bào thai bị khuyết tật, và trẻ sơ sinh bị tử vong bất chợt. Khi hút thuốc lá, hơi độc và chất nicotine trong khói thuốc ngăn giảm
dưỡng khí không thể tới bào thai. Những chất kim loại nặng như cadmium và nicotine có thể làm hư buồng trứng, kìm hãm kích thích tố estrogen sinh sản, và làm cho di thể thay đổi bất thường.
Biết là nguy hại nhưng hiện giờ 15% phụ nữ có thai vẫn tiếp tục hút thuốc lá và 43 triệu phụ nữ Mỹ vẫn hít thở không khí đầy khói thuốc thả ra từ những người hút thuốc xung quanh. Phụ nữ ít học hút thuốc lá thường xuyên hơn. Trong một nghiên cứu vào năm 1995 cho biết khoảng 40% phụ nữ hút thuốc lá chưa học hết trung học, 34% đã học hết trung học, 24% vừa học xong đại học và 14% đã tốt nghiệp đại học. Sống trong hoàn cảnh nghèo khổ hay bị bệnh tâm thần tăng nguy cơ hút thuốc lá. Hút thuốc lá tăng nguy cơ bệnh tim mạch, bệnh nghẹt thở kinh niên, và đặc biệt bị nguy cơ ung thư phổi, bọng đái, ung thư cổ tử cung, ruột già, thận, gan, cổ họng, tuyến tụy tạng, trực tràng và ung thư da. Tham khảo: University of Rochester, New York, 2008.
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D.; E-mail: nmtran@hotmail.com; Xin mời Quý Vị độc giả ghé thăm Y Dược Ngày Nay, một trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tập đoàn Nhân sâm Hàn Quốc tại Hoa Kì (KGCUS), nơi sản xuất thương hiệu nhân sâm số một thế giới CheongKwanJang, tự hào giới thiệu thức uống thảo dược có ga HSW kết hợp hồng sâm 6 năm tuổi, tới các khách hàng quan tâm đến sức khỏe tại WaBa Grill, một trong những chuỗi nhà hàng hàng đầu chuyên phục vụ món cơm lành mạnh
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.