Hôm nay,  

Câu Chuyện Sinh Y Học: Biểu Hiện Di Thể Và Ung Thư Buồng Trứng

22/05/201000:00:00(Xem: 8296)

Câu Chuyện Sinh Y Học: Biểu Hiện Di Thể và Ung Thư Buồng Trứng

Bs Trần mạnh Ngô
Biểu hiện kháng nguyên ung thư Buồng Trứng phụ nữ
Bs Shiqian Zhang và các đồng nghiệp phổ biến kết quả nghiên cứu những kháng nguyên trong tế bào biểu mô và dòng tế bào ung thư buồng trứng phụ nữ như MAGE, GAGE, và BAGE. Mục đích chính của các tác giả là muốn tìm hiểu biểu hiện mRNA trong các kháng nguyên ung thư buồng trứng kể trên.
Theo các tác giả thì các di thể MAGE, BAGE và GAGE có thể đóng vai trò quan khi bệnh phát hiện và việc truy tầm di căn ung thư buồng trứng. Những di thể này cũng có thể là những chỉ dấu quan trọng trong việc sớm định bệnh và tiên lượng ung thư buồng trứng phụ nữ. Bài đăng trong BMC Cancer, 10: 163, 2010.
Thử Nghiệm Biểu Hiện Di Thể sớm truy tầm ung thư buồng trứng
Bs Z. Yurkovetsky và các cộng sự viên thử nghiệm một loạt những dấu ấn khác nhau như CA-125, HE4, CEA, và VCAM-1. Kết quả đăng trong báo Journal of Oncology, ngày 9 tháng 10, 2010. Bốn dấu ấn sinh học CA-125, HE4, CEA và VCAM-1 có thể dùng để sớm truy tầm ung thư biểu mô buồng trứng phụ nữ.
Thêm một nghiên cứu nữa cho biết kháng thể Chống Kháng Nguyên Ung Thư (TAA, Tumor-associated antigens), và dấu ấn sinh học (2D-DITA và STIP-1) cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc truy tầm ung thư buồng trứng phụ nữ. Tường trình này do Bs Sunghun Kim và các đồng nghiệp đăng trong báo Genes, Chromosomes and Cancer, 49: 585, 2010.


Khuếch đại Di Thể CCNE1 và ung thư buồng trứng
Bs Naomi Nakayama và các đồng nghiệp muốn tìm hiểu liệu di thể CCNE1 trong ung thư buồng trứng khuếch đại có ảnh hưởng xấu tới việc tiền định ung thư buồng trứng và làm cho đời sống bệnh nhân ngắn ngủi thêm. Đồng thơì các tác giả cũng muốn biết liệu di thể CCNE1 có phải là một trong những mục tiêu quan trọng trong việc điều trị ung thư buồng trứng phụ nữ. Bài phổ biến trong báo Cancer 116: 2621, 2010.
Kết quả thử nghiệm cho biết biểu hiện di thể CCNE1 ảnh hưởng rất nhiều tơí việc tăng trưởng ung thư buồng trứng và đời sống bệnh nhân, đặc biệt khi di thể CCNE1 khuếch đại. Ngoài ra, CCNE1 còn kìm hãm kiểu hình RNA (RNA-induced phenotypes). Theo các tác giả thì điều trị nhắm vào di thể CCNE1 có lợi cho bệnh nhân ung thư buồng trứng, khi CCNE1 khuếch đại.
Tóm lại đây là một số nghiên cứu tiêu biểu cho thấy vai trò di thể càng ngày càng trở nên quan trọng trong việc chuẩn định và điều trị ung thư buồng trứng phụ nữ,
Bác sĩ Trần mạnh Ngô, E-mail: nmtran@hotmail.com; Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, Một trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt. 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
Theo Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA), khoảng 9 trong số 10 toa thuốc ở Hoa Kỳ có kê thuốc đồng dạng (thuốc generic) của một loại thuốc nguyên gốc (brand name). Tuy nhiên, có thể sẽ có nhiều người không biết là loại thuốc họ mua ở hiệu thuốc là thuốc đồng dạng hay thuốc nguyên gốc. Vậy hai loại thuốc này có gì khác biệt không? Và nếu có, nó có quan trọng không?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.