Hôm nay,  

Ảnh Hưởng Lên Sức Khỏe Con Người Của Ddt

12/12/200800:00:00(Xem: 7836)
Ảnh Hưởng Lên Sức Khỏe Con Người Của DDT
Phạm Gia Cổn và Mai Thanh Truyết
Trong những năm gần đây, các hợp chất hữu cơ chứa Chlor đã được xử dụng với liều lượng quá tải trong nhu cầu bảo vệ thực vật và trong các kỹ nghệ hóa chất ở Việt Nam. Hóa chất được xử dụng nhiều nhất là DDT (Dichloro-Diphenyl-Trichloro-Ethane). Theo báo cáo của TS Nguyễn Ngọc Sinh trong Chương trình Môi trường LHQ và Bộ Y tế Việt Nam năm 1999, chỉ trong 3 năm 1992, 93, và 94 Việt Nam đã nhập cảng trên 400.000 tấn DDT từ Liên Sô và Trung Quốc. Trước năm 1975, miền Nam nhập cảng trung bình hàng năm độ 8.000 tấn và chỉ dùng cho chương trình diệt trừ sốt rét mà thôi.
Tính chất của DDT
DDT là tên viết tắt của hoá chất có công thức 1,1,1-trichloro-2,2-bis-(p-chlorophenyl)ethane, một loại bột trắng đã được tổng hợp vào năm 1874; nhưng mãi đến năm 1930, Bác sĩ Paul Muller (Thụy Sĩ) mới xác nhận DDT là một hóa chất hữu hiệu trong việc trừ khử sâu rầy và từ đó được xem như là một thần dược, nhưng không biết có ảnh hưởng nguy hại lên con người. Khám phá trên mang lại cho ông giải Nobel về y khoa năm 1948.
Ngay sau đó, DDT đã được xử dụng rộng rãi khắp thế giới trong việc khử trùng và kiểm sóat mầm mống gây bịnh sốt rét. Nhưng chỉ hai thập niên sau, một số chuyên gia thế giới đã khám phá ra tác hại của DDT lên môi trường và sức khỏe của người dân. Do đó, tại Hoa Kỳ hoá chất nầy đã bị cấm xử dụng hẳn DDT từ năm 1972 và hoá chất nầy chiếm vị trí thứ 10 trong danh sách 12 "hóa chất dơ bẩn" hay "hạt bụi ô nhiễm hữu cơ không bị hủy" (POP) đã được thông qua qua hiệp ước Stockholm, Thụy Điển năm 2002. Lý do là sau khi được xử dụng, DDT vẫn tiếp tục tồn tại trong nguồn nước, lòng đất và bụi DDT vẫn lơ lững trong không khí. DDT không hoà tan trong nước nhưng hòa tan trong dung môi hữu cơ và được Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ xếp vào danh sách hóa chất cần phải kiểm soát vì có nguy cơ tạo ra ung thư cho người và thú vật.
DDT có thể đi vào môi trường không khí, đất và nước. Nó cũng được xếp vào loại dioxin-tương đương. Đời sống bán hủy của DDT vào khoảng 3 ngày, nhưng sau khi bị phân hủy, DDT chuyển hóa thành dạng DDD, và DDE và cuối cùng sẽ tích tụ trong nước và trầm tích lâu dài. Ảnh hưởng của hai chất sau nầy tương tự như DDT.
Năm 1998, đại diện của 92 quốc gia trên thế giới nhóm họp tại Montreal (Canada) để bàn thảo về những biện pháp như cấm sản xuất và xử dụng 12 hoá chất độc hại còn được gọi là "hóa chất dơ bẩn" trong đó có DDT vì tính độc hại của chúng do sự tích lũy lâu dài trong không khí, lòng đất và nguồn nước, kết tụ vào các mô động thực vật, nguồn thực phẩm chính của con người.
Tuy đã bị cấm xử dụng từ năm 1972 vì những khám phá ảnh hưởng lên môi trường, hiện nay, hóa chất trên vẫn được dùng rộng rãi ở Phi Châu, Indonesia, Ấn Độ, Châu Mỹ La tinh và Việt Nam trong công tác diệt trừ muỗi, tác nhân của bịnh sốt rét do ấu trùng Plasmodium falciparum, một trong 4 loại ấu trùng nguy hiểm nhất của bịnh chuyển từ muỗi sang người. Riêng tại Việt Nam, DDT đã được dùng ngoài công tác trên, còn được xem như là hóa chất nền chính trong việc pha chế hầu hết hóa chất bảo vệ thực vật dùng trong nông nghiệp và chăn nuôi.
Sở dĩ, DDT vẫn còn được chiếu cố ở các quốc gia đang phát triển vì cho đến hôm nay, hoá chất nầy vẫn còn hữu hiệu trong việc phòng chống bịnh sốt rét. Theo thống kê mới nhất của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), hàng năm có khoảng từ 300 đến 500 triệu người bị bịnh sốt rét trên tòan cầu, và có khoảng 1,2 triệu tử vong, đa số là trẻ em vùng sa mạc Sahara, Phi Châu. Thêm nữa, kinh phí cho việc chửa trị cho số bịnh nhân còn lại ước tính lên đến 1,7 tỷ Mỹ kim. Tuy nhiên, xử dụng DDT để phòng bịnh không còn là một phương pháp hữu hiệu nữa vì ấu trùng bịnh sốt rét ngày càng tăng thêm sức đề kháng kể từ khi con người lần lượt dùng thuốc chloroquine, sulfadoxine, chuyển qua artemisinine, và gần đây pyrethroids. Do đó, hiện nay, việc tổng hợp thuốc sau cùng với DDT mới đạt được mức hữu hiệu trong công việc đề phòng bằng cách phun xịt lên các bức tường trong nhà.
Việc tiếp nhiễm DDT và ảnh hưởng lên sức khỏe
Con người tiếp nhiễm DDT qua nhiều cách khác nhau: trực tiếp và gián tiếp. Về trực tiếp, trong thời gian phun xịt thuốc, con người có thể bị nhiễm qua phổi hoặc qua da. Về gián tiếp, khi ăn các thực phẩm như ngũ cốc, rau đậu đã bị nhiễm DDT, cũng như tôm cá sống trong vùng bị ô nhiễm, DDT sẽ đi vào cơ thể qua đường tiêu hoa và tích tụ theo thời gian trong các mô mỡ và gan của con người. Tại Hoa Kỳ, mặc dù đã bị cấm xử dụng từ năm 1972, nhưng hàm lượng DDT trung bình trong cơ thể của mỗi người dân là 0,8 ug.
Có hai loại ảnh hưởng: cấp tính và mãn tính.
Trước hết, đứng về phương diện cấp tính, nếu ăn nhằm thực phẩm chứa vài gram hóa chất trong một thời gian ngắn, có thể bị ảnh hưởng trực tiếp lên hệ thần kinh. Người bị nhiễm độc sẽ bị run rẩy, co giựt mạnh kéo theo tình trạng ói mửa, đổ mồ hôi, nhức đầu, và chóng mặt. Các hiện tượng trên có thể chấm dứt ngay sau việc nhiễm độc được ngăn chặn và bịnh nhân được chữa trị kịp thời. Tuy nhiên, đã có vài trường tử vong do nhiễm độc cấp tính được báo cáo trong lịch sử y học.
Về phương diện mãn tính, khi bị nhiễm độc với liều lượng nhỏ trong một thời gian dài, nhiệm vụ của gan bị thay đổi, lượng diếu tố (enzyme) của gan trong máu có thể bị tăng lên và sữa mẹ là nơi tích tụ hóa chất quan trọng nhất. Thí nghiệm lên chuột cho thấy các hiện tượng sau đây xảy ra sau một thời gian dài bị nhiễm độc. Nếu bị nhiễm độc vào khoảng 20-50 mg/ngày/kg cơ thể, điều nầy có thể ảnh hưởng đến việc sinh sản, đến các tuyến nội tiết như tuyến giáp trạng, nang thượng thận. Nếu bị nhiễm lâu hơn nữa có thể đứa đến ung thư.
Từ những kết luận trên, Cơ quan Quốc tế về Nghiên cứu Ung thư (International Agency for Research of Cancer) đã xác nhận DDT và các chuyển hoá DDE và DDD là tác nhân gây ra bịnh ung thư cho con người.
Việt Nam đã và đang xử dụng một lượng thuốc DDT không nhỏ cho nhu cầu bảo vệ thực vật, hầu hết các hoá chất bảo vệ thực vật đểu dùng DDT như một hoá chất nền (buffer); do đó mức độ tiếp nhiễm của người nông dân Việt Nam rất cao, và nguy cơ bị nhiễm độc có xác xuất rất lớn.

Tùy theo vùng sinh sống và cung cách làm ăn và sinh hoạt, con người có thể bị nhiễm độc trực tiếp hay gián tiếp như:
- Những người sống trong vùng nông nghiệp chuyên canh về lúa thường hay bị nhiễm độc qua đường nước;
- Người sống trong vùng chuyên canh về thực phẩm xanh như các loại hoa màu sẽ bị nhiễm qua đường hô hấp;
- Và sau cùng, dân vùng thị tứ bị nhiễm khi tiêu thụ các thực phẩm đã bị nhiễm độc. Nơi đây thiết nghĩ cũng cần phải liệt kê thêm một số gia súc và thú rừng đã bị nhiễm; do đó, người tiêu thụ khi ăn phải sẽ bị nhiễm theo. Đây là trường hợp chiếm đại đa số các vụ nhiễm độc ở Việt Nam.
Đối với các bà mẹ đang mang thai, sự tiếp nhiễm có thể ảnh hưởng lên thai nhi và DDT có thể xâm nhập vào thai nhi qua nước ối và nhau của bà mẹ cũng như qua đường cuống rốn. Khi đã được sinh ra, trẻ sơ sinh sẽ bị tiếp nhiễm qua đường sữa mẹ. Nghiên cứu cho thấy nếu bà mẹ đã bị nhiễm độc thì thai nhi sẽ bị chậm phát triển và hệ thống sinh dục của thai nhi có thể bị biến dạng.
Qua Công ước Stockholm, DDT bị cấm xử dụng trong nông nghiệp vì ảnh hưởng của chúng lên con người về lâu dài. Báo cáo khoa học mới nhất vào tháng 6, 2006 ở Đại học Y tế Công cộng, Berkeley cho thấy rằng trẻ sơ sinh bị tiếp nhiễm gián tiếp trong bụng mẹ sẽ bị chậm phát triển cả về cơ thể và thần kinh, cũng như tỉ lệ tử vong trong bụng mẹ rất cao.
Qua nhiều báo cáo khoa học khác, nhiều nhà khoa học đã bắt đầu nghi ngờ việc xử dụng DDT trong công tác diệt trừ sốt rét bằng cách phun xịt lên tường trong nhà ở. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng từ năm 1945 trở đi việc xử dụng DDT đã làm cho 19 loài muỗi có mang ấu trùng sốt rét tăng thêm sức đề kháng, do đó cần phải phun xịt một liều lượng cao hơn. Vì vậy việc xử dụng hóa chất nầy không còn được các nhà khoa học hưởng ứng nữa so với tác hại của chúng lên môi trường.
Biện pháp hạn chế và phòng ngừa việc tiếp nhiễm
Như đã nói ở phần trên, việc nhiễm độc DDT và các chất chuyển hóa là do việc tiếp xúc với không khí hay nước uống cùng thực phẩm đã bị nhiễm độc. Do đó những bà mẹ đang có bầu cần nên hạn chế tối đa việc tiếp xúc hay ăn uống những thức ăn có nguy cơ bị nhiễm độc. Đối với các quốc gia hiện còn đang xử dụng hóa chất nầy như một lọai thuốc bảo vệ thực vật cũng như trong kỹ nghệ chăn nuôi tôm cá, thì nguy cơ bị nhiễm độc càng cao. Do đó:
- Cần phải nấu chín tôm cá để giảm thiểu lượng DDT và đừng nên ăn các mô mỡ;
- Rữa rau trái kỹ lưỡng để làm trôi lượng thuốc bám vào lá hay võ trái cây. Rễ và củ cũng là hai địa điểm tích tụ DDT quan trọng;
- Hay tốt hơn cả, chúng ta nên tránh ăn những sản phẩm có nguy cơ nhiễm độc cao ở những vùng nầy.
Kết luận
Trong những năm 1997 và 98, chúng tôi có nêu lên nhiều cảnh báo qua một loạt bài viết về ô nhiễm nguồn nước trong đó có nguy cơ ô nhiễm DDT và Arsenic là quan trọng nhất. Cũng như trong một báo cáo của Chương trình Môi trường LHQ, hầu hết thực phẩm như thịt, cá, gà vịt và nhất là trứng gà trứng vịt trong các chợ ở Hà Nội năm 1999 đều có sự hiện diện của DDT trong đó. Mặc dù DDT là một hóa chất hữu hiệu trong việc ngăn ngừa và kiểm soát bịnh sốt rét, mang lại giải Nobel y khoa cho BS Paul Muller, Thụy Sĩ năm 1948. Nhưng ngày nay qua sự tiến bộ của khoa học, DDT cũng là nguồn di hại đến sức khỏe của nhân loại và là tác nhân của nhiều chứng ung thư hiễm nghèo. Do đó việc hạn chế hay không xử dụng hóa chất nầy vẫn là một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất hiện tại.
Đáng tiếc thay, Việt Nam vẫn tiếp tục xử dụng với một liều lượng quá tải, dùng DDT như là chất đệm chính trong hổn hợp của hầu hết các thuốc bảo vệ thực phẩm khác đang thịnh hành với mục đích làm tăng thêm hiệu quả của việc phun xịt. Điều nầy phải cần nên xét lại vì làm như thế, trước hết, sâu rầy và côn trùng sẽ tăng sức đề kháng và sau đó, nông dân sẽ phải nâng cao liều lượng phun xịt lên.
Việc đem DDT vào nông nghiệp và chăn nuôi ở Việt Nam và một số quốc gia đang phát triển là một việc làm có tính cách nhất thời. Vì sao" Vì DDT sẽ tồn tại lâu dài trong môi trường, sẽ chuyển hoá thành DDE và có độc tính tương đương như dioxin, do đó còn có tên là dioxin-tương đương. Vì vậy, ảnh hưởng lên môi trường của DDT trong việc pha chế các thuốc bảo vệ thực vật cần phải được loại trừ, vì hiện nay, ngành công nghệ sinh học tiên tiến có khả năng tạo giống mới cho cây trồng có sức đề kháng cao. Công nghệ nầy áp dụng cấy mô hay tế bào vào cây trồng  hay động vật để tạo ra kháng thể tự nhiên cho các thế hệ về sau, do đó cây cỏ và gia súc sẽ có tính miễn nhiễm và đề kháng cao đối với sâu rầy.
Do đó, để kết luận, nguy cơ ô nhiễm DDT và các hóa chất bảo vệ thực vật khác là một nguy cơ có thật và đã được chứng minh qua nhiều vụ nhiễm độc cá nhân hay tập thể xảy ra thường xuyên ở Việt Nam. Đã đến lúc Việt Nam cần phải xem xét lạt chính sách phát triển đặc biệt trong nông nghiệp, chăn nuôi và việc quản lý môi trường. Chúng ta cũng cần nên suy gẫm lời nhắn sau đây của TS Dick Irwin, một chuyên gia nổi tiếng về ngô độc của Hoa Kỳ:" Hóa chất đã thay thế vi khuẩn và siêu vi khuẩn trong các nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Các bịnh bắt nguồn từ hóa chất đang trở thành nguyên nhân hàng đầu trong tử suất của nhân lọai vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21."
Đứng về phương diện phòng bị và diệt trừ sốt rét, DDT vẫn là một tác nhân hữu hiệu trong công tác trên. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, trước sức đề kháng ngày càng tăng của muỗi và ấu trùng, chúng ta cần phải thay đổi phương cách và dùng các hổn hợp hoá chất trừ sâu rầy khác trộn lẫn với DDT. Thêm nữa, việc phòng bịnh vẫn tốt hơn là việc trị bịnh, do đó, cần phải phát triển nhanh hơn và rẻ hơn những loại thuốc chủng ngừa sốt rét. Hiện nay, Quỹ Bill và Melinda Gates đã tài trợ một ngân khoản lớn cho việc sản xuất thuốc chủng nầy. Và đây cũng là một giải pháp hợp lý cho việc phòng ngừa bịnh sốt rét thay thế cho việc xử dụng DDT.
Riêng về khía cạnh phát triển nông nghiệp, DDT cần phải được loại bỏ để tránh cho môi trường ở các quốc gia đang phát triển giảm thiểu được một phần nào mức độ ô nhiễm ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hóa của thế giới.
Phạm Gia Cổn
Mai Thanh Truyết
VAST, 12/2008

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cách đâu 30-40 năm, lúc người tỵ nạn Việt mới định cư ở Mỹ và bắt đầu làm quen với các tập tục kể những tập quán về y tế ở Mỹ, trong y giới Mỹ cũng như các nước tây phương khác đang tranh cãi rất nhiều về chỉ định có nên cắt bao quy đầu theo thông lệ (routine circumcision) cho trẻ em sơ sinh hay không. Thuật ngữ “circumcision”, gốc latinh “circumcisio”. Từ "cắt bao quy đầu" xuất phát từ các từ Latin circum và caedo (circum: “xung quanh”; caedo: “tôi cắt”), có nghĩa đen là "cắt xung quanh". Từ epitome trong tiếng Hy Lạp cũng có nguồn gốc từ gốc có nghĩa là "cắt" hoặc "vết mổ". Trong tiếng Hebrew (Do Thái), phép cắt bao quy đầu được gọi là “peritomy”, xuất phát từ tiếng Hy Lạp peritomy.
Người ta vẫn thường nói “You are what you eat” (Những gì bạn ăn thể hiện bạn là ai). Nhưng có lẽ sẽ đúng hơn khi nói rằng những gì chúng ta ăn sẽ khiến chúng ta có những cảm xúc gì, bởi vì những tiến bộ trong lĩnh vực dinh dưỡng tâm thần học cho thấy chế độ dinh dưỡng đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của chúng ta.
Đặng Đình Bách: Tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết cộng đồng và câu chuyện đau buồn về sự bất công cần phải khắc phục tại Việt Nam...
Việc thuốc trị béo phì Zepbound mới được thông qua đã bổ sung thêm lựa chọn cho các loại thuốc giúp giảm cân, nhưng nó cũng đi kèm với những thách thức về chi phí và khả năng tiếp cận, giống như các loại thuốc giảm cân khác trong cùng nhóm. Các loại thuốc trong nhóm này gồm chất chủ vận (agonists), hay chất bắt chước các hormone tự nhiên trong ruột có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể và tín hiệu đói phát ra từ não. Nhưng các loại thuốc đã được chuẩn thuận, các phiên bản tổng hợp của các hormone này, là những phân tử có kích thước lớn nên quá trình sản xuất khá tốn kém và mất thời gian. Điều này khiến cho thuốc có giá cả đắt đỏ và ngày càng khan hiếm
Bên cạnh việc đi du lịch, thời gian quây quần bên gia đình và những lễ hội tưng bừng, mùa lễ cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bịnh tim, đột quỵ và nhịp tim không đều. Theo một nghiên cứu được trình bày tại British Cardiovascular Society đầu năm nay, kỳ nghỉ lễ năm nay có thể còn nguy hiểm hơn bình thường vì Giáng sinh rơi vào thứ Hai. Nghiên cứu mới phát hiện rằng nguy cơ lên cơn đau tim vào thứ Hai cao hơn so với các ngày khác trong tuần.
Mỗi năm, ở Hoa Kỳ có nửa triệu người chết vì các nguyên nhân liên quan đến hút thuốc, trong khi ước tính có khoảng 16 triệu người đang sống với các bệnh mãn tính liên quan đến hút thuốc lá, như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, các bệnh tim mạch, đột quỵ hoặc ung thư. Những rủi ro của việc hút thuốc thì chắc ai cũng đã biết rõ, nhưng cai thuốc vẫn là một việc rất khó khăn, khiến nhiều người bỏ cuộc giữa chừng; họ cho rằng dù gì thì sức khỏe cũng đã tổn thương rồi. Tuy nhiên, theo nhiều nghiên cứu, cai thuốc luôn có nhiều lợi ích.
Ngày 8 tháng 12, Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt liệu pháp chỉnh sửa gen CRISPR/Cas9 đầu tiên trên thế giới. Phương pháp điều trị này được gọi là Casgevy, nhắm vào bệnh hồng cầu hình lưỡi liềm (sickle cell), giúp cơ thể bệnh nhân tạo ra huyết sắc tố khỏe mạnh. Ở những người mắc bệnh hồng cầu hình lưỡi liềm, huyết sắc tố bất thường khiến cho các tế bào hồng cầu trở nên cứng và có hình lưỡi liềm, có thể gây tắc nghẽn mạch máu. Đến tháng 3 năm 2024, FDA sẽ ra quyết định liệu liệu pháp tương tự có thể được sử dụng để điều trị bệnh beta-thalassemia, một chứng rối loạn làm giảm sản xuất huyết sắc tố, hay không.
Mấy tháng nay chúng ta nghe nói nhiều đến bệnh phổi, “hội chứng phổi trắng” (White Lung Syndrome” và dịch sưng phổi hay “pneumonia” ở trẻ em bên Trung Quốc và ở Mỹ với tin đồn rằng có con vi khuẩn hay siêu vi mới gây ra bệnh này.
Số ca nhiễm vi rút hợp bào hô hấp (RSV) gia tăng, bệnh cúm đang lây lan rộng rãi và số lượng bệnh nhân phải vào bệnh viện cấp cứu ngày càng tăng. Tốt nhất là nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa để bảo vệ bản thân, khách khứa và gia đình quý vị. Theo một cuộc khảo sát của tổ chức vô vụ lợi KFF (trước đây gọi là Kaiser Family Foundation), một nửa người dân Hoa Kỳ dự định thực hiện các biện pháp bảo vệ sức khỏe trong mùa lễ này. Một số lo lắng về nguy cơ mắc bệnh của chính mình; những người khác muốn bảo vệ người thân vì các loại bệnh hô hấp rất dễ lây truyền.
11 năm trước, các khoa học gia Jennifer Doudna và Emmanuelle Charpentier lần đầu tiên mô tả một phương pháp mới để chỉnh sửa gen, được gọi là CRISPR, trong một bài báo khoa học. Phát hiện mới rất quan trọng và đã giúp cho hai khoa học gia đoạt giải Nobel Hóa học năm 2020: nó có thể thay đổi cách điều trị các căn bệnh di truyền. Vào ngày 8 tháng 12 năm 2023, Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chính thức chuẩn thuận phương pháp điều trị đầu tiên dựa trên công nghệ này ở Hoa Kỳ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.