Hôm nay,  

Tin Mơí Y Học: Tim Lớn Và Tiểu Đường, Sinh Tố D, Ung Thư Tuyến Tụy Tạng

20/02/201000:00:00(Xem: 10810)

Tin Mơí Y Học: Tim Lớn Và Tiểu Đường, Sinh Tố D, Ung Thư Tuyến Tụy Tạng

Bác sĩ Trần mạnh Ngô
Bệnh Tiểu Đường với Tim Lớn và Xơ Tim.
Theo Bs Lisandro Maya và F. J. Villarreal thì khoảng 8% có tim lớn khi bị tiểu đường. Bởi vậy y khoa cần có những phương pháp  chính xác để chuẩn định khi bị tim lớn hay xơ tim do bệnh tiểu đường gây ra. Bài tường đăng trong báo Journal of Molecular and Cellular Cardiology, 48: 524, 2010.
Hiện giờ siêu âm tim là phương pháp thông thường được dùng nhiều nhất để định bệnh tim lớn do tiểu đường gây ra. Siêu âm là phương pháp tương đối rẻ tiền. Ngoài ra còn có phương pháp chụp hình cộng hưởng từ trường được dùng để định bệnh xơ cứng tim. Kính phổ quan và những chất phản quang giúp phân tích những hoá chất biến dưỡng do tim và gan. Ngoài ra còn phân tích những dấu ấn sinh học để phân tích thêm những thay đổi chức năng tim do bệnh tiểu đường gây nên.
Đau tim do tiểu đường (diabetic cardiomyopathy) suy chức năng tâm thất tim nhưng không bị bệnh xơ cứng động mạch vành tim (coronary atherosclerosis). Bệnh nhân bị tâm thấy nở lớn, tế bào tim phì đại, xơ cứng tim, chức năng tâm thu giảm (hay bình thường), chức năng tâm trương suy yếu.
Bốn nguyên nhân chính gây suy tim tiểu đường: 1) Xơ cứng tế bào nội mô và tế bào dưới nôi mô động mạch tim. Hiện tượng xơ cứng tế bào nội mô làm cho động mạch tim co nhỏ (microangiopathy). 2) Hiện tượng biến dưỡng mô tim bất bình thường (myocardial metabolic abnormalities) gây hư hại co dãn chức năng tim (cardiac contractile dysfunction). 3) Hệ thống thần kinh cơ tim bị hư hại cũng làm hỏng chức năng cơ tim. Tế bào thần kinh không thể điều chỉnh giữ chất đường làm suy chức năng tâm trương. Hư hại thần kinh tim có thể gây hiện tượng thiếu máu cục bộ (ischemia). Do đó tăng nguy cơ tử vong. 4) Suy giảm hiện tượng "ion" làm hư hại chức năng tim.
Người già có sinh tố D cao giảm nguy cơ tiểu đường và bệnh tim


Theo tin tức y học từ trường y khoa Warwich (do J. Parker và các cộng sự viên đăng trong báo Maturitas, 65: 225, 2010) thì người già lớn tuổi có mức sinh tố D cao giảm nguy cơ bệnh tim hay tiểu đường (43%). Phân tích 28 nghiên cứu bao gồm 99,745 bệnh nhân kể cả đàn ông và đàn bà, trong thơì gian từ 1990 tơí 2009. Phân nửa số nghiên cứu này ở Mỹ, 8 nghiên cứu ở Âu Châu, 2 ở Iran, 3 ở Úc Châu và 1 ở Ấn Độ. Nguy cơ bệnh tim mạch giảm 33%, nguy cơ bệnh tiểu đường giảm 55% và nguy cơ hội chứng biến dưỡng giảm 51%. Hội chứng biến dưỡng bao gồm bệnh cao huyết áp, cao insulin, nhiều mỡ tích tụ vùng háng, cao cholesterol, gây nguy cơ bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não và tiểu đường.
Cách Mới Truy Tầm Ung Thư Tuyến Tụy Tạng
Bs David Wong thuộc Đại Học Y Khoa UCLA phân tích 4 dấu ấn sinh học mRNA trong nước bọt (nước miếng) cho 90 người, so sánh bễnh nhân ung thư tuyến tụy tạng (pancreas cancer) vơí bệnh nhân viem tụy tạng kinh niên hay người bình thường. Dấu ấn sinh học mRNA bao gồm 4 loại: KRAS, MBD3L2, ACRV1, và DPM1. Kết quả thử nghiệm có độ nhạy cảm (sensitivity) là 90% và độ đặc thù 95%, hơn tất cả những phương pháp thử máu hay phương pháp thử nghiệm sớm truy tầm ung thư tuyến tụy tạng từ trước tơí nay. Kết quả nghiên cứu do Bản Tin Đại Học UCLA phổ biến.
Tuyến tụy tạng hình ống, dài 6 phân Anh (inches), nằm xâu trong bụng, bệnh cạnh ruột non tá tràng, đằng sau bao tử. Tuyến tụy tạng tiết phân hoá tố tiêu hoá đồ ăn và tiết chất insulin dùng đường làm năng lượng và kiểm soát mức đường trong máu. Có 2 loại ung thư tuyến tụy tạng: 1) ung thư tuyến (adenocarcinomas, exocrine tumors) từ những tế bào trong ống tuyến tụy tạng (pancreas ducts) và 2) ung thư từ tế bào sản xuất kích thích tố (hormone-producing cells, endocrine cancer).
Bs Trần mạnh Ngô, E-mail: nmtran@hotmail.com;
Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, một trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
Theo Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA), khoảng 9 trong số 10 toa thuốc ở Hoa Kỳ có kê thuốc đồng dạng (thuốc generic) của một loại thuốc nguyên gốc (brand name). Tuy nhiên, có thể sẽ có nhiều người không biết là loại thuốc họ mua ở hiệu thuốc là thuốc đồng dạng hay thuốc nguyên gốc. Vậy hai loại thuốc này có gì khác biệt không? Và nếu có, nó có quan trọng không?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.