- Uống Sinh Tố (Vitamines) Có An Toàn"
Bs Catherine A Mulholland và Bs Diane J Benford đưa ra kết quả nghiên cứu muốn biết: 1) Những hóa chất trong đồ ăn liệu có an toàn, kể cả sinh tố và những kim loại chúng ta thường ăn uống hàng ngày. 2) Độ an toàn có thể khác biệt theo tuổi tác và dân chúng sống từng vùng. 3) Liều lượng vài thứ thuốc có thể thay đổi trong vài trường hợp. Chẳng hạn uống sinh tố A (Vitamin A) hay Manganese liều lượng cao có thể gây công phạt. Những chất sắt hay sinh tố C ít bị công phạt hơn và có thể trở lại bình thường. Độ an toàn tùy theo liều lượng, tùy theo từng cá nhân, hoặc uống cùng một hóa chất trong nhiều thuốc hay đồ ăn khác nhau.
Bs Jason Woo phổ biến tường trình của DFA (Food and Drug Administration) cho biết khoảng 1% trường hợp ăn uống đồ bổ xung bị công phạt. Tuy nhiên, nghiên cứu đã gặp phải nhiều trở ngại, thí dụ thiếu thông tin y khoa, giới hạn thông tin những sản phẩm đang dùng, giới hạn thông tin của cơ quan sản xuất thuốc, thiếu thông tin từ những người dùng thuốc và giới hạn khả năng phân tích. FDA hiện chỉ căn cứ theo những tường trình khi uống thuốc bị công phạt nên cần thêm tài liệu để nghiên cứu thêm. Bs Irwin H. Rosenberg bàn luận: Từ hơn thế kỷ về trước, lần đầu tiên chúng ta dùng sinh tố. Bây giờ dần dần người ta đã hiểu rõ hơn những vai trò của sinh tố nhờ khoa học tiến triển như sinh học, hóa học và chuyển biến của mỗi sinh tố. Theo Bs Rosenberg thì ông hy vọng càng ngày chúng ta càng hiểu rõ sinh tố hơn.
Ngoài sinh học còn có những khoa học căn bản khác như bộ di truyền (genomes), di truyền học, khoa học phẩm hạnh (behavioral science) hoặc những phương pháp phân tích mới. Tất cả cấu tạo một nền tảng quan trọng trong việc sản xuất và tiêu thụ sinh tố. [Chú thích: Sinh tố là những phân tử sinh học.
Trong cơ thể, sinh tố đóng vai trò như xúc tác (catalysts) hay cơ chất (substrates) trong những phản ứng sinh hóa học. Vài tường trình cho biết khi uống liều lượng sinh tố cao có thể gây công phạt. Lượng sinh tố càng cao bao nhiêu, càng gây nhiều công phạt bấy nhiêu. Những triệu chứng công phạt như ói mửa hay tiêu chảy. Nhưng nói chung thì sinh tố không gây những công phạt thật nguy hiểm cho cơ thể. Nếu thấy triệu chứng công phạt thì nên giảm liều lượng thấp hơn. Độ lượng sinh tố trong cơ thể tùy theo tuổi tác và tình trạng sức khỏe của mỗi người. Tại Hoa Kỳ, năm 2004, khoảng 50 ngàn trẻ em dưới 6 tuổi bị công phạt vì sinh tố. Bởi vậy, y sĩ cũng như khoa học gia thường nghiên cứu liều lượng sinh tố hay những đồ ăn bổ xung để xác định độ an toàn của sinh tố hàng ngày cho từng cá nhân). References:
1) American Journal of Clinical Nutrition, 85: 318S, 2006;
2) American Journal of Clinical Nutrition. 85: 323S, 2006;
3) American Journal of Clinical Nutrition, 85: 325S, 2006.
Thủ thuật buộc ống dẫn tinh trùng cai đẻ
Ở Mỹ, phần nhiều dân da trắng, người có học thức, bệnh nhân có bảo hiểm, thường đi buộc đường dẫn tinh trùng ngừa thai sinh đẻ nhiều hơn người Mỹ gốc Mễ.
Phần lớn là những thanh niên còn trẻ, dưới 30 tuổi. Bệnh nhân thích phương pháp chặn đường dẫn tinh trùng (obstruction) không cần giải phẫu, vì ít công phạt.
Hiện chưa có nghiên cứu nào cho biết buộc đường dẫn tinh trùng ngừa thai tăng nguy cơ ung thư nhiếp hộ tuyến hay ung thư tinh hoàn. (Reference: AFP, 74: 2069, 2006). [Chú thích: Buộc đường dẫn tinh trùng của đàn ông là phương pháp ngừa thai hiệu quả nhất. Tuy nhiên, trước khi giải phẫu, nhiều vấn đề cần được sáng tỏ trong thủ thuật này, thí dụ chọn lựa bệnh nhân, tìm phương pháp nào thích hợp nhất cho mỗi bệnh nhân, theo dõi sau khi giải phẫu và đặc biệt phải biết những công phạt khi theo dõi lâu năm. Hiện giờ bệnh nhân thích chọn phương pháp không cần dùng dao mổ, và ít biến chứng hơn. Phương pháp thành công nhất là đốt ống vasa. Cắt bỏ đường dẫn tinh trùng không cần dao cắt có những điểm lợi như sau:
1) Ít bị biến chứng hơn 10 lần,
2) Ít bị chảy máu và ít đau hơn,
3) Nhanh hơn và không cần buộc [Cornell University, 2006].
Khi bệnh nhân muốn cắt đường dẫn tinh trùng để ngừa thai cần phải biết những biến chứng như: Mặc dù làm vasectomy vẫn có thể cương được và vẫn có khoái cảm. Không gây nguy cơ ung thư nhiếp hộ tuyến. Vài bệnh nhân sau khi mổ xong còn kêu đau vài tháng sau, nhưng hiếm thấy. Bác sĩ giải phẫu niệu khoa sẽ chỉ cho bệnh nhân những điều cần biết và nên làm sau khi giải phẫu cắt bỏ đường dẫn tinh trùng để ngừa thai).
Thuốc Mới Omalizumab Trị Suyễn Nặng
Bs Justine Clark và các đồng nghiệp vừa tường trình vai trò của thuốc Omalizumab trị bệnh hen suyễn nặng. Mặc dù ngày nay đã có rất nhiều thử nghiệm điều trị miễn dịch dị ứng, nhất là chúng ta đã hiểu rõ cơ nguyên điều trị miễn dịch bao gồm việc giảm IgE trong mùa suyễn, tăng cao mức allergen-specific IgG, chuyển đổi thăng bằng giữa T-cells từ Th2 sang Th1, và sản xuất IL-10. Nhưng điểm bất lợi của miễn dịch tri liệu (immunotherapy) là gây quá nhiều công phạt. Dùng Omalizumab giảm IgE trong máu, giảm biểu hiện FceRI đóng vai trò quan trọng trong tế bào miễn dịch (immune effector cells), tế bào basophils và tế bào nhiều nhánh (dendritic). Nhờ đó làm thay đổi hiện tượng miễn nhiễm và làm cho cơ thể đỡ bị phản ứng công phạt vì kháng nguyên (allergens).
Trước đây, người ta đã dùng corticosteroids để chữa suyễn. Cũng có trường hợp đã thử methotrexate trị suyễn nặng. Mục đích chính là để thay đổi tình trạng miễn dịch, nhưng methotrexate ít dùng vì độc tính của thuốc.
Có thể nói Omalizumab là thuốc đầu tiên trị suyễn nặng trong nhiều thập niên qua. Ngoài ra Omalizumab còn có đặc tính giảm viêm, dễ uống, ít công phạt.
Hy vọng trong những năm tháng tới Omalizumab sẽ giữ vai trò quan trọng hơn trong việc điều trị suyễn cũng như những nghiên cứu kiểm soát IgE sẽ càng ngày càng phát triển thêm. (Reference: Trong báo Journal of Asthma, 43: 87, 2006).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D.; E-mail: nmtran@hotmail.com; Xin mời quý bạn ghé thăm Y Dược Ngày Nay (www.yduocngaynay.com), một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.