Hôm nay,  

Câu Chuyện Y Học: Sinh Lý Giáp Trạng

10/10/200800:00:00(Xem: 5185)

 

Bs Trần mạnh Ngô

Phụ Nữ Có Thai Khi Bị Thiếu Chất Iode Nên Ăn Thêm Muối IodBs Francesco Vermyglio và các đồng nghiêp thuộc Đại Học Messina nghiên cứu 100 phụ nữ có thai sống trong vùng thiếu chất Iod. Phụ nữ có thai khoảng từ 6 tới 9 tuần lễ tuần lễ và không bị bệnh giáp trạng. Trong số 100 phụ nữ có 62 người dùng chất muối Iod thường xuyên trong vòng 2 năm trước khi có thai. 38 người chỉ bắt đầu dùng muối Iod khi bắt đầu có thai. Kết quả cho thấy tỉ lệ suy giáp trạng của các người có thai bị suy giáp trạng cao gấp 6 lần những người dung muối Iod lâu hơn (p < 0.001). Đối vơí những ngưòi có thai dùng muối Iod lâu hơn có tỉ lệ mức thyroglobin, T3 và T4 thấp hơn những người mới dùng Iod trước khi có thai. Ngoài ra, những người sớm dùng muối Iod còn có mức T4 tự do (free T4) cao hơn. Một số tác giả còn cho rằng phụ nữ sống trong những vùng thiếu Iod nên cho thêm muối Iod vào sinh tố sẽ giúp ích cho phụ nữ có thai hay phụ nữ sắp sửa có thai. Kết quả đăng trong báo J Clin Endocrinology and Metabolism, 93: 2466, 2008 và 93: 2616, 2008.  Sinh Lý Giáp Trạng Tuyến giáp trạng giữ nhiệm vụ quan trọng trong việc điều hòa dinh dưỡng và chất vôi trong cơ thể. Kích thích tố T3 và T4 kích thích mọi tế bào trong cơ thể, sản xuất chất bạch đản (proteins) và tăng sức tiêu thụ dưỡng khí của tế bào. Trục liên hệ  phần dưới não đồi thị, não thuỳ, và tuyến giáp trạng (hypothalamus-pituitary-thyroid axis): Hoạt động bình thường của tuyến giáp trạng nằm trong tác dụng cân bằng của phần dưới não đồi thị (hypothalamus), phần trước tuyến não thùy, và tuyến giáp trạng. Hoạt động giáp trạng kiểm soát bởi kích thích tố thyroid stimulating hormone, TSH, tiết ra từ tế bào (thyrotrophs) nằm trước não thùy (hypophysis). Tổng hợp và sản xuất TSH là do kích thích tố thyrotropin-releasing hormone (TRH) từ phần dưới não đồi thị. Ngược lại, TSH và TRH đều bị cân bằng kìm hãm bởi kích thích tố tuyến giáp trạng. Đo TSH trong máu là cách hay nhất để biết ảnh hưởng kích thích tố  giáp trạng vào tế bào.  Dinh dưỡng muối Iod: Muối Iod có từ đâu" Phế thải ra sao" Tế bào giáp trạng có nhiệm vụ tổng hợp, lưu trữ và sản xuất kích thích tố giáp trạng.  Iod là thành phần cấu tạo quan trọng nhất của kích thích tố giáp trạng. Bởi vậy, khi thiếu Iod sẽ sinh bệnh bướu cổ và bệnh giảm năng giáp trạng (hypothyroidism) như chứng độn (cretism) và bệnh câm-điếc. Ngược lại, khi Iod thặng dư cũng sinh bệnh giảm năng giáp trạng (hypothyroidism) hay nhiễm độc do tuyến giáp trạng (thyrotoxicosis). Iod cũng dùng điều trị bướu cổ địa phương (endemic goiter) hay bệnh nhiễm độc nặng do tuyến giáp trạng (thyrotoxicosis). Mỗi ngày, mỗi người cần khoảng 250 tới 750 micrograms Iod. Iod hấp thụ vào máu qua đường ruột. Nếu chúng ta sống trong vùng thiếu Iod, mỗi ngày chỉ ăn được từ 10 tới 50 micrograms, sẽ sinh bệnh bướu cổ đỵa phương (endemic goiter), nghĩa là loại bướu cổ xuất hiện từng vùng. Thử nước tiểu, sẽ không có chút Iod nào. Mỗi ngày kích thích tố tuyến giáp trạng sa thải 60 micrograms Iod, nhưng Iod sẽ được dùng trở lại. Nếu sống trong vùng có Iod đầy đủ, mỗi ngày mỗi người sẽ mất chừng 280 micrograms Iod trong nước tiểu (80% tổng số hấp thụ trong đồ ăn mỗi ngày). Iod phế thải sẽ lọc qua niếu quản, vào thận và ra ngoài nước tiểu.Mỗi ngày, mỗi người chúng ta cũng mất 15 micrograms Iod trong phân. Iod từ đồ ăn vào máu, nếu không giữ lại trong tuyến giáp trạng, có thể tạm thời chui vào hạch nước bọt, màng nhầy và vào ruột. Bởi vậy khi uống đồng vị phóng xạ Iod sẽ thấy hình ảnh ruột hiện ra tích tụ đồng vị phóng xạ Iod.  Ba vũng muối Iod (Iodide pools)trong cơ thể: Có 3 vũng muối Iod trong cơ thể. Vũng lớn nhất nằm trong tuyến giáp trạng dưới thể hữu cơ có 6000 micrograms muối Iod. Vũng thứ hai nằm ngòai tuyến giáp trạng, cũng dưới thể hữu cơ kích thích tố giáp trạng, chứa 500 micrograms muối Iod. Vũng thứ ba gồm muối Iod thể vô cơ, khoảng 75 micrograms, trôi trong máu. Mỗi ngày, khoảng 375 micrograms muối Iod vào vũng thứ ba (Iod vô cơ), bao gồm 300 micrograms muối Iod từ đồ ăn, 60 micrograms muối Iod tiêu hủy từ T4 và 10 micrograms muối Iod lọt ra từ bên trong tuyến giáp trạng. Mỗi ngày, tuyến giáp trạng rút ra 85 micrograms muối Iod từ vũng Iod vô cơ (khoảng 20%). Muối Iod vô cơ từ đồ ăn hay uống đồng vị phóng xạ Iod sẽ vào máu rồi hút vào tuyến giáp trạng theo tỉ lệ 20/1. Tỉ lệ đồng vị phóng xạ Iod hút vào tuyến giáp trạng cao là hiện tượng tuyến hoạt động mạnh và cũng có nghĩa là nhiều Iod vô cơ vào được tuyến giáp trạng. Trường hợp giáp trạng hoạt động yếu, tuyến sẽ dùng ít muối Iod vô cơ.Thử nghiệm trong chuột và người cho thấy khi lượng muối Iod tăng cao sẽ tăng lượng kích thích tố tuyến giáp trạng. Nhưng nếu muối Iod thặng dư, hay tăng nhiều quá, sẽ giảm mức sản xuất kích thích tố giáp trạng. Thử nghiêm sống chứng minh muối Iod vô cơ thặng dư giảm oxýt hóa tyrosine. Trong vài trường hợp khác, nếu lượng muối Iod vô cơ vẫn tăng cao, nhưng hiện tượng sản xuất kích thích tố giáp trạng khộng giảm, sẽ làm nhiễm độc tuyến giáp trạng (thyrotoxicosis) hay bệnh giảm năng  giáp trạng (hypothyroidism). Bệnh Hashimoto nằm trong trường hợp giảm năng tuyến giáp trạng vì muối Iod và viêm kinh niên (chronic inflammation). Bs Trần Mạnh Ngô, E-mail: nmtran@hotmail.com; Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com. một Trnag Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.