Báo Y Khoa: Bệnh Tim Mạch và HIV
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô
Sau 20 năm nạn dịch AIDS, một số nghiên cứu đã nhắm vào việc tìm hiểu trường hợp mạch máu bị viêm hay hiện tượng nhiễm trùng liên hệ xơ cứng động mạch máu, hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome), hoặc bệnh cao mỡ trong máu hay hội chứng kháng insulin.
Ngày nay, nhờ những phương thức điều trị hữu hiệu hơn, bệnh nhân bị AIDS đã sống lâu hơn, và y khoa đã phát hiện ít ra khoảng 10% bệnh nhân nhiễm HIV bị bệnh tim mạch.
Cơ nguyên bệnh tim mạch của bệnh nhân AIDs chưa được biết rõ nhưng nhiều nghiên cứu hiện còn đang tìm hiểu xem liệu có liên hệ gì giữa siêu vi trùng HIV, hiện tượng viêm với đường hoá học của chất cytokines, mỡ cao trong máu do chất kìm hãm protease, và ảnh hưởng HIV trực tiếp vào tế bào nội mô mạch máu. Đặc biệt khuyến y khoa lưu ý phòng ngừa bệnh tim mạch trong việc điều trị bệnh AIDs (International Journal of Cardiology, 133: 293, 2009).
Trong một bài khác bàn luận việc dùng thuốc trị siêu vi trùng HIV (ART), hay thuốc kìm hãm protease, cũng muốn biết liệu HIV có ảnh hưởng tơí hiện tượng biến dưỡng tiểu đường và cao mỡ.
Những dữ kiện kể trên cho thấy HIV có nguy cơ tăng cao bệnh tim mạch và nếu chúng ta kiểm soát đươc siêu vi trùng HIV trong lúc sinh sản, chúng ta có hy vọng kiểm soát được nguy cơ bệnh tim mạch của bệnh nhân AIDS.
Một số tường trình gần đây còn cho thấy nếu bệnh nhân không điều trị chống HIV sẽ bị lượng cholesterol tốt HDL thấp hơn trong máu so vơí người bình thường. Ngược lại nếu bệnh nhân AIDs bắt đầu được điều trị bằng thuốc ART thì lượng HDL sẽ tăng lên trong máu. Và nếu điều trị bệnh AIDs bằng thuốc ART lâu hơn thì nguy cơ nhồi máu cơ tim của bệnh nhân AIDs sẽ giảm thấp hơn. (PLoS Medicine, Vol. 3, Nov 2006).
Trong một nghiên cứu từ báo khác nữa gần đây khuyến cáo bệnh nhân AIDS trong khi điều trị ART cần thêm những phương pháp phòng ngừa khác thường dùng để giảm nguy cơ bệnh tim mạch, như giảm chất mỡ cao trong máu, kiểm soát bệnh cao huyết áp tốt hơn, và đồng thời nên khuyên bệnh nhân AIDs bỏ hút thuốc lá.
Mặc dù chưa có chứng cớ rõ ràng cho biết thuốc ART không có tác dụng trực tiếp vào chất mỡ cholesterol trong huyết thanh bệnh nhân AIDS, nhưng các chuyên gia đã khuyên các bác sĩ có thể dùng thêm thuốc trị cao mở như statins hay fibrates điều trị bệnh nhân AIDs bị bệnh cao mỡ.
Trong bài nghiên cứu này, các tác giả cũng khuyến cáo nên dùng phương pháp Framingham để chẩn đoán nguy cơ bệnh tim mạch trong khi điều trị bệnh nhân AIDS. (J. Acquir Immune Defic Syndr. 50: 54, 2009).
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô, E-mail: nmtran@hotmail.com; Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, một trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô
Sau 20 năm nạn dịch AIDS, một số nghiên cứu đã nhắm vào việc tìm hiểu trường hợp mạch máu bị viêm hay hiện tượng nhiễm trùng liên hệ xơ cứng động mạch máu, hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome), hoặc bệnh cao mỡ trong máu hay hội chứng kháng insulin.
Ngày nay, nhờ những phương thức điều trị hữu hiệu hơn, bệnh nhân bị AIDS đã sống lâu hơn, và y khoa đã phát hiện ít ra khoảng 10% bệnh nhân nhiễm HIV bị bệnh tim mạch.
Cơ nguyên bệnh tim mạch của bệnh nhân AIDs chưa được biết rõ nhưng nhiều nghiên cứu hiện còn đang tìm hiểu xem liệu có liên hệ gì giữa siêu vi trùng HIV, hiện tượng viêm với đường hoá học của chất cytokines, mỡ cao trong máu do chất kìm hãm protease, và ảnh hưởng HIV trực tiếp vào tế bào nội mô mạch máu. Đặc biệt khuyến y khoa lưu ý phòng ngừa bệnh tim mạch trong việc điều trị bệnh AIDs (International Journal of Cardiology, 133: 293, 2009).
Trong một bài khác bàn luận việc dùng thuốc trị siêu vi trùng HIV (ART), hay thuốc kìm hãm protease, cũng muốn biết liệu HIV có ảnh hưởng tơí hiện tượng biến dưỡng tiểu đường và cao mỡ.
Những dữ kiện kể trên cho thấy HIV có nguy cơ tăng cao bệnh tim mạch và nếu chúng ta kiểm soát đươc siêu vi trùng HIV trong lúc sinh sản, chúng ta có hy vọng kiểm soát được nguy cơ bệnh tim mạch của bệnh nhân AIDS.
Một số tường trình gần đây còn cho thấy nếu bệnh nhân không điều trị chống HIV sẽ bị lượng cholesterol tốt HDL thấp hơn trong máu so vơí người bình thường. Ngược lại nếu bệnh nhân AIDs bắt đầu được điều trị bằng thuốc ART thì lượng HDL sẽ tăng lên trong máu. Và nếu điều trị bệnh AIDs bằng thuốc ART lâu hơn thì nguy cơ nhồi máu cơ tim của bệnh nhân AIDs sẽ giảm thấp hơn. (PLoS Medicine, Vol. 3, Nov 2006).
Trong một nghiên cứu từ báo khác nữa gần đây khuyến cáo bệnh nhân AIDS trong khi điều trị ART cần thêm những phương pháp phòng ngừa khác thường dùng để giảm nguy cơ bệnh tim mạch, như giảm chất mỡ cao trong máu, kiểm soát bệnh cao huyết áp tốt hơn, và đồng thời nên khuyên bệnh nhân AIDs bỏ hút thuốc lá.
Mặc dù chưa có chứng cớ rõ ràng cho biết thuốc ART không có tác dụng trực tiếp vào chất mỡ cholesterol trong huyết thanh bệnh nhân AIDS, nhưng các chuyên gia đã khuyên các bác sĩ có thể dùng thêm thuốc trị cao mở như statins hay fibrates điều trị bệnh nhân AIDs bị bệnh cao mỡ.
Trong bài nghiên cứu này, các tác giả cũng khuyến cáo nên dùng phương pháp Framingham để chẩn đoán nguy cơ bệnh tim mạch trong khi điều trị bệnh nhân AIDS. (J. Acquir Immune Defic Syndr. 50: 54, 2009).
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô, E-mail: nmtran@hotmail.com; Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, một trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.
Gửi ý kiến của bạn