Ống Carbon Cực Nhỏ Khử Độc Tố Anthrax. Gs Ravi S. Kane đã mất hơn một năm trơì mới tạo được một phương pháp dùng ống carbon cực nhỏ (nanotubes) để khử độc tố Anthrax và các bạch đản (protein) nguy hại khác. Những ống carbon cực nhỏ bao phủ xung quanh bằng những chất bạch đản yếu tác dụng khi bị chiếu bằng ánh sáng tia hồng ngoại (infrared) hay những loại ánh sáng mắt không thể nhìn thấy được. Chất bạch đản sấy bằng những ánh sáng đặc biệt không nguy hại khi chích vào cơ thể. Dùng máy điều khiển có thể hướng dẫn ống cực nhỏ tơí mục tiêu mong muốn và khử được những độc tố hay bạch đản nguy hại cho cơ thể.
Kết quả đăng trong báo Nature Nanotechnology, December 2007. Những ống cực nhỏ nanogram mỏng chỉ bằng kích thước một nguyên tử (atom). Lớp mỏng carbon gọi là graphene xếp xung quanh những ống cực nhỏ kích thước nanogram. Kỹ thuật dùng ống cực nhỏ carbon không phải chỉ dùng trong áp dụng y khoa mà còn dùng trong kỹ nghệ nanotechnology, điện tử và nhãn khoa, và nhiều lãnh vực khác. Căn bản những nguyên tử bám thành ống nhỏ cực tiểu dựa theo nguyên tắc hóa học lượng tử (quantum chemistry). Liên kết (bond) dính những nguyên tử lại với nhau còn mạnh hơn liên kết của kim cương.
Mồ Hôi Đêm
Trong báo The Journal of Family Practice số 4, June 2007 có bài nói về đổ mồ hôi đêm.Theo các tác giả Cindy W. Su, Sean Gaskie và C. Hitchcock thì tìm hiểu tiểu sử bệnh lý rất quan trọng trong việc chuẩn định bệnh đổ môi đêm. Bệnh nhân thường than phiền bị đổ mồ hôi đêm mà trời không thấy nóng nực. Phụ nữ bị mặt đỏ phừng (hot flash) đổ mồ hôi đêm và thường dùng kích thích tố chữa giảm mồ hôi đêm. Những nguyên nhân khác làm đổ mồ hôi ban đêm như ho lao, ung thư bạch huyết, nhiễm HIV, và hội chứng ợ chua.
Nhiều y sĩ muốn thử nghiệm tìm hiểu lý do đổ mồ hôi đêm, nhưng cũng có y sĩ cho rằng việc này không cần thiết. Những thử nghiệm từng được nêu ra như đếm máu, đo mức kích thích tố thùy não (TSH), đo độ lóng tụ hồng huyết cầu, thử lao và thử HIV, chụp hình phổi. Theo tác giả Anthoni J. Viera cùng các đồng nghiệp tường trình trong báo American Family Physicians, tháng 3, 2003, còn đề nghị thêm chụp hình cắt lớp bụng, chụp hình cắp lớp phổi, sinh thiết tủy xương.
Theo nhóm bác sĩ Cindy W. Su và các đồng nghiệp thì nếu thử nghiệm không thấy gì, y sĩ có thể cho bệnh nhân thử uống thuốc chống ợ chua. Bác sĩ cần theo dõi tình trạng bệnh nhân liên hệ nhiệt độ trong cơ thể. Ngoài ra, y sĩ phải loại bỏ nghi ngờ bệnh nhân có thể bị viêm nội mô, hay ung thư bạch huyết. Một tường trình khác cho biết kích thích tố trị liệu có thể giảm hiện tượng đổ mồ đêm và mặt nóng phừng khi phụ nữ bị tắt kinh (75%). Thêm một nghiên cứu khác nữa cho rằng dùng thuốc chữa giảm độ ợ chua (heart burn) có thể đạt được kết quả giảm mồ hôi đêm tới 80%. Một số thuốc dùng để thoa trực tiếp chỗ đổ mồ hôi như thoa ngoài da aluminum chloride hexadrate (Drysol), antiperspirants, scopolamine, hay phenoxylbenzamine hydrochloride (Dibenzyline). Nhưng, ngược lại, một số thuốc sau đây có thể gây đổ mồ hôi đêm: Thuốc chữa bệnh ưu trầm, thuốc chữa bệnh nhức nửa đầu, thuốc giảm nhiệt, thuốc chống cholinergic (tiết acetylcholine), thuốc chống GNRH, thuốc chữa tiểu đường, thuốc chống giao cảm (sympathomimetic), và vài thứ thuốc khác trong đó phải kể: rượu, thuốc trị cao máu chặn beta (beta blockers), thuốc trị cao máu chặn calcium (calcium blockers), Bromocriptine, v. v. v. Xin coi thêm chi tiết trong trong báo Journal of Family Practice, 56: 493, 2007.
Trong mục này, các tác giả cũng nêu lên một số bệnh gây đổ mồ hôi đêm như:
1) Bệnh tuyến nội tiết, bệnh tiểu đường loại Diabetes insipidus, cường giáp trạng, mức đường hạ thấp trong máu, bướu nội tiết như pheochromocytoma (u bướu tế bào ưa nhuộm crôm), carcinoid tumor (u tế bào ưa nhuộm chất bạc), hoặc tình trạng sau khi bệnh nhân bị cắt bỏ ngọc hoàn,
2) Các bệnh nhiễm trùng như nhiễm trùng nội mô, bệnh HIV, bệnh nhiễm trùng tăng bạch cầu đơn nhân (Infectious mononucleosis), làm mủ (abcess) trong phổi, bệnh lao phức tạp (Mycobacterium avium complex), viêm xương và bệnh lao, nhiễm trùng nấm coccidiomycosis hay histoplasmosis,
3) Những nguyên nhân ung thư như: ung thư máu trắng, ung thư nhiếp hộ tuyến, ung thư thận, và nhiều loại ung thư khác.
4) Một số bệnh thần kinh như tự động mất phản xạ (autonomic dysreflexia), bệnh thần kinh tự trị (autonomic neuropathy), tai biến mạch máu não.
5) Hiện tượng thay đổi sinh lý sau khi uống rượu lâu năm, đột nhiên ngưng uống rượu (withdrawal), sau khi dùng ma túy lâu năm như cocaine hay opioids.
6) Sau hết, hội chứng mệt mỏi kinh niên, ợ chua (heart burn), tắt kinh, ngủ ngáy nghẹ thở, lên cơn bấn loạn, có thai, đau ngực sau khi động mạch tim co thắt mạnh (Prinsmetal), viên mạch máu Takayasu, viêm mạch máu thái dương..., đều có thể đổ mồ hôi ra ban đêm. Cần đọc thêm những triệu chứng khác khi bị cơn đau tim đổ môi đêm để biết và kịp thời cấp cứu.
Tài Liệu Tham Khảo:
1) Journal Family Practice, 58: 493, 2007;
2) American Family Physicians, 67: 1079, 2003;
3) Medline Literature từ 1966 tới 2001,
4) Harrison's Principle thứ 13th.
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., E-mail: nmtran@hotmail.com. Xin mời quý độc giả ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.