TƯỞNG NHỚ VŨ ÁNH –MỘT NHÀ BÁO CHUYÊN NGHIỆP (Phân 2)
LTS: Nhà báo, Nhà Bình luận lâu năm của Đài Phát thanh Sài Gòn thời Việt NamCộng Hòa và làng báo Việt ở Hoa Kỳ, Ông Vũ Ánh, đã qua đời ngày 14/03/2014 tại NamCalifornia, hưởng thọ 73 tuổi.
Một số đồng nghiệp của “làng báo Sài Gòn trước 1975” đã viết về những kỷ niệm với anh như một lời tiễn đưa không bao giờ quên được.
Các Bài viết đã được Nhà báo Phạm Trần tập trung, chuẩn bị để gửi đến Bạn đọc dưới đây:
Vũ Ánh: Một Đời Sĩ Khí
Phan Thanh Tâm
(Cựu Phóng viên VNTTX)
Vũ Ánh gia nhập ngành truyền thông từ thuở mới trên hai mươi trong suốt 11 năm cho đền ngày Saigon bị đổi tên; đã tham dự hành quân với các đơn vị quân đội ở khắp các mặt trận trong bốn vùng chiến thuật; bị Cộng sản bắt tù 13 năm, trong đó có "sáu năm biệt giam; ba muỗng nước; ba muỗng cơm mỗi ngày; cùm chữ U máu mủ ứa cổ chân" chỉ vì anh đã dám làm tờ báo chui Họp Đoàn trong trại tù, nhưng nhà báo Vũ Ạnh vẫn "chưa lần lung lay ý chi'’.
Đời Vũ Ánh đúng là "một đời sĩ khí" như bài thơ cùa bạn tù A20 Nguyễn Thanh Khiết viết vĩnh biệt anh sau khi anh qua đời ngày 14 tháng ba năm 2014 tại Orange County, California.
Nhờ bài thơ này tôi biết rõ về những thống khổ mà anh đã trải qua trong 13 năm tù tội. Vũ Ánh làm Đài Phát Thanh Quốc Gia; tuy dân sự nhưng có đi học nhảy dù. Còn tôi làm cho Việt Nam Thông Tấn Xã(VNTTX).
Quen nhau từ lâu nhưng không hề nghe anh kể gì về anh. Bài thơ cho thấy anh đã có "một thời lẫm liệt; trước gông cùm kềm kẹp" trong khi chỉ có "ba lát khoai khô; cõng mấy hạt cơm gạo mốc"; dưới cái nóng Hạ Lào cháy khô thung lũng. Anh lúc nào cũng nghĩ đến “ngọn bút hiên ngang thay làn tên mũi đạn”.
Sau ngày 30/4/75 cả thành phố Saigon như đang bị lột da, tôi gặp anh trong một quán nước. Trao đổi với nhau tin tức về những tổ chức chống Cộng mới nổi lên và tin tức về bạn bè; ai đã đi hay ai còn ở lai. Không bao lâu sau đó tôi nghe tin anh bị bắt. Tôi tìm đường vượt biên. Năm 1992 gặp lại anh ở Washington,D.C. tại nhà một người bạn. Anh vừa qua Mỹ theo diện HO. Hỏi giờ định làm gi? Vẫn nụ cười hiền hòa thay vì tìm một cuộc sống ổn định mà có vài nơi sẵn sàng đón nhận; anh cho biết sẽ qua Cali làm báo vì ở đó có một cộng đồng lớn.
Trong bức thư gửi phóng viên Ngọc Lan, phổ biến trên Ngoc Lan'Blog của báo Người Việt hồi tháng 2 năm 2008, Vũ Ánh viết: ”Chú hãnh diện cho 40 năm làm việc trong ngành với biết bao thăng trầm đổi thay".
Theo anh, không có sự chính trực và ngay thẳng thì chắc anh đã không sống nổi dưới chế độ CS. Anh nói Ngọc Lan:“Chiến tranh chấm dứt, chú không hề thù hận họ và không chấp nhận kiểu quản lý đất nước trong tình trạng người dân vẫn còn thiếu tự do dân chủ như hiện nay. Chú tranh đấu bằng ngòi bút, nói chuyện phải trái ôn tồn để tìm ra giải pháp chứ không chửi rủa, thù hận và cực đoan”.
Nhận xét về báo chí hải ngoại trong Kỷ Yếu Đại Hội Truyền Thông Hải Ngoại ở California năm 2003 anh nhận xét: “Ưu tư của phần đông những người làm báo Việt ngữ hiện nay là thị trường và sự mất đoàn kết trong giới làm truyền thông và báo chí. Vẫn chưa thấy mất hẳn những lời cáo buộc có tính chụp mũ và khoác cho người khác áo Cộng Sản một cách vô tội, vẫn chưa xóa sạch được cách viết báo vạch trần đời tư người khác không có bằng chứng rải rác trên một số tờ báo hay đài phát thanh Việt ngữ”.
Vũ Ánh qua đời sau khi cúi gõ những chữ cuối cùng bài "Hà Nội vẫn chưa đủ niềm tin cởi trói báo chí" trưa ngày thứ sáu 14/3/2014. Anh đã nằm gục ngay trên bàn viết. Sự ra đi vĩnh viễn của anh cũng như của nhà báo lão thành Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh năm 2012 và nhà báo Lê Thiệp năm 2013 - ba nhà báo kỳ cựu của truyền thông miền Nam trước 1975- là những mất mát lớn cho làng truyền thông hải ngoai.
Phan Thanh Tâm
***
Vũ Ánh, một chiến sĩ cầm bút nghiêm chỉnh
Nguyễn Tuyển
Khi tôi từ chiến trường Long Khánh đeo theo một chiếc Chinook vừa thả một đơn vị Nhảy Dù quay trở ra Long Bình, tôi thuê xe Honda ôm chạy về Đài Sài Gòn. Hôm đó, tôi cũng không ngờ đó cũng là ngày cuối cùng của mặt trận Long Khánh mà lúc sáng sớm, tôi còn ngồi với tư lệnh mặt trận, tướng Lê Minh Đảo, ở bìa rừng cao su.
Trước khi bước qua vọng gác an ninh, một sĩ quan Cục An Ninh Quân Đội đối diện với Đài Phát Thanh Sài Gòn mà tôi quen biết cho hay “chúng nó” bao quanh Sài Gòn đông lắm.
Vào Sở Thời Sự của Đài, tôi nhìn thấy dấu hiệu có vẻ không bình thường. Nhiều người không có mặt và cũng không biết ở đâu. Riêng Vũ Ánh, Chánh sự vụ Sở Thời Sự thì ngồi ở đó, nghiêm chỉnh làm việc.
Tôi cho Ánh hay là tôi không mang được gì khả dĩ hữu ích cho một bản tin hay một phóng sự về mặt trận Long Khánh dù tôi ở đó 4 ngày đêm. Từ những lời tướng Lê Minh Đảo nói với tôi đến những gì tôi phỏng vấn người dân đều không dùng được khi mà dân cả nước đang thật cần các tin tức tình hình chiến sự.
Tôi hỏi Ánh tính sao khi có người lo tìm cách chạy. Nếu tôi nhớ không lầm, Ánh nói với tôi rằng Ánh không đi đâu cả. Ánh đã chuẩn bị một khẩu Carbine báng gấp, vài băng đạn và hai bộ bà ba đen với một ít đồ cần thiết bỏ trong ba lô. Thủ ở Đài và tiếp tục làm việc nếu có đơn vị quân đội nào đến tăng cường giữ Đài. Còn nếu phải chạy đi đâu với cơ quan, đơn vị nào, thì Ánh đã sẵn sàng.
Không may, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng ngày 30 Tháng Tư 1975. Rồi Ánh bị bắt đi tù suốt 13 năm trời trong cái địa ngục trần gian.
Khi được chuyển từ một phòng khác sang Sở Thời Sự làm phóng viên thời sự sau những ngày đi làm phóng sự chiến trường dịp Tết Mậu Thân (1968), tôi mới biết Ánh. Cho tới nay, dù ở cương vị nào, Việt Nam hay làm báo ở hải ngoại, lúc nào tôi cũng thấy một Vũ Ánh nghiêm chỉnh làm việc, chu toàn nhiệm vụ. Tôi không hề thấy Ánh đổ lỗi cho ai. Kể cả trường hợp khẳng khái nhận trách nhiệm vì mình là cấp chỉ huy mà xảy ra cái chuyện bất như ý, tai hại như thế, do người cấp dưới làm.
Ở Đài Phát Thanh Sài Gòn, dù khi làm Chánh sở, với các nhân viên cấp dưới nhưng cùng trang lứa mà chức vụ chỉ là phân chia trách nhiệm để chỉ huy điều hành, Vũ Ánh với chúng tôi, biên tập viên, phóng viên lúc nào cũng mày tao với nhau. Tôi không thấy Ánh lấy chức vụ để “đì” hay “bắt nạt” cấp dưới.
Tại nhật báo Người Việt ở Quận Cam, khi làm tổng thư ký hay chủ bút, Vũ Ánh vẫn cách cư xử bạn bè không thay đổi sau cuộc “đổi đời”. Cung cách làm việc cũng vẫn chăm chỉ, nghiêm chỉnh không đổi. Vẫn mày tao. Vũ Ánh là một chiến sĩ khẳng khái ,cương nghị, nhìn thấy cái gì bất bằng hay cần phải viết là viết theo đúng lương tâm của một người cầm bút có tinh thần trách nhiệm. Không sợ hãi, không bỏ chạy.
Tôi không theo kịp được Vũ Ánh.
Nguyễn Tuyển
***
Vũ Ánh-Người Không Biết Giận Hờn
Nguyễn Thiên Ân
Nhà Phật lúc nào cũng khuyên chúng sinh phải cố lánh xa tam độc. Tham sân si, theo các trưởng tử của Phật, là đầu mối cho mọi phiền não, thậm chí dẫn đến sa đọa trong đời nầy và địa ngục cho đời sau. Nhà Chúa thì khuyên giữ đức nhẫn qua một câu nói vẫn được dùng làm phương châm ứng xử trong cuộc sống "Kẻ tát má nầy, hãy chìa má kia ra ; người đoạt áo choàng, cũng đừng cản nó lấy áo lót. Phàm ai xin, ngươi hãy cho; và kẻ đoạt của ngươi, ngươi chớ đòi lại" (*).
Đó là những lời khuyên của các bậc hiền triết. Người trần mắt thịt có phần chắc là khó mà làm theo một cách trọn vẹn. Làm sao để đừng tham khi vàng bạc dê béo rượu nồng gái đẹp được dâng hiến thật rời rộng ngay trước mắt mình? Làm sao để đừng thù hận khi cứ phải nhận hứng những hành hạ đớn đau đến tận cùng sức chịu đựng của thân xác? Làm sao để có thể bình tĩnh đến mức thản nhiên chấp nhận hầu như mọi đòn vọt trên xác thân, lẫn mọi nhục nhằn trên tinh thần mình từ những kẻ mà thường ra đều thấp kém hơn mình nhưng lại bạo thô gấp trăm lần người bình thường?
Nhà Phật khuyên một tình yêu tuyệt đối bằng lời khuyến cáo mọi tín đồ hành hạnh bồ tát. Nhà Chúa bảo hãy tha thứ cho kẻ khác đến bảy mươi bảy lần bảy. Tất cả, nói cho cùng, đều là những lời khuyên mà mục đích tối thượng chỉ là để tất cả chúng ta -- vốn mang đầy cả nguyên tội lẫn kỷ tội -- đừng hành xử quá gian ác đối với mọi loài đang cùng chia sẻ cõi trần ô trọc nầy với mình. Đa phần đều không màng nghĩ đến những khuyến cáo thánh thiện đó trong lúc buồng phổi vẫn còn hít thở dưỡng khí và trái tim vẫn dư khả năng đều đặn bơm máu nuôi thân. Nhưng, nhìn một cách ít bi quan hơn, thì chung quanh chúng ta vẫn còn có một số ít, rất ít, đã cố gắng sống và làm theo. Và đấy chính là những người thuộc thành phần xứng đáng được tuyên dương và khâm phục.
Có quá chăng khi nói rằng bạn tôi, Nhà báo Vũ Ánh, thuộc số rất ít những người như thế?. Quá thì quả là có quá dưới tầm mắt quan sát sơ sài của người bàng quan. Nhưng trong tư cách hai người bạn, thân thích hơn anh em cật ruột từ non nửa thế kỷ qua, tôi có thể khẳng định điều vừa ghi. Và bên dưới tình thân thương, sự khâm phục và nỗi cảm thông lẫn nhau vẫn được chúng tôi chân thành dành cho nhau, tôi cũng có thể tự nhủ rằng tôi không hề quá lạm khi nghĩ như thế về bạn mình. Dĩ nhiên tôi cũng mong mọi người chung quanh nhìn bạn tôi y như thế.
Sinh ra và lớn lên vào thời chiến trong một xã hội nghèo khó và lúc nào cũng đong đầy hoạn nạn, khó có thể trách cứ người ta bon chen, kèn cựa, tranh giành, sang đoạt, bóc lột ... kẻ khác để chiếm phần lợi cho mình và gia đình mình. Cái đó là bản chất của giống thấp hèn. Nhưng nếu tất cả đều như thế, chỉ như thế, thì làm gì còn có hi vọng, và còn có ai nói đến tình yêu và lòng từ bi hỉ xả? Sự kiện yêu thương từ bi hỉ xả vẫn được nói đến, dĩ nhiên phải xuất phát từ những hành vi đích thực hiển hiện. Tuổi trẻ nào cũng sốc nổi và bồng bột. Thành thử nếu một kẻ đồng trang xuất hiện trước mặt mình, cao lớn, đẹp trai, cười cười nhỏ nhẹ và khi lên tiếng thì chứa chan những trầm ấm dường như chỉ muốn nhường những hành động vừa bồn chồn vừa có phần lớn lối cho những bạn trẻ vừa diện kiến lần đầu với mình, thì sẽ rất khó mà không nhận ra sự khác thường đó.
Lần gặp đầu trong đài phát thanh Saigon giữa Vũ Ánh và tôi là như thế. Và tuy cũng chỉ là như thế nhưng nó cơ hồ đã trở thành một dấu ấn trong mọi liên hệ giữa chúng tôi suốt một thời gian dài sau nầy. Bạn chịu khó, rất xông xáo và đa năng nhưng hình như chưa ai nghe bạn tôi phàn nàn chuyện gì, hay trách chê một ai khác. Lần duy nhứt trong đời, nghe đến tức cười, là khi bạn tôi than đói do đã bị bắt phải chờ đợi từ sáng sớm cho đến giữa trưa để theo dõi, ghi nhận và làm cho xong phóng sự buổi trình diện "nội các của người nghèo" của Thiếu tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ vào ngày 19/6/1965 tại hội trường Diên Hồng. "Mẹ, đói thối cả mồm". Chỉ có vậy. Không nói gì hơn. Không thêm thắt chút nào nữa cho đến khi hoàn tất công tác.
Những lần đi theo các đơn vị quân sự để làm phóng sự chiến trường cho đài thì cũng y như thế. Vác cái máy Uher xệ vai, cộng thêm một mớ băng từ tính leo lên máy bay C47 nóng như lửa hoặc bám theo những trực thăng tải quân mà khoảng trống dành cho phóng viên nhà nước chỉ vừa lọt thân người, là những chịu đựng mà cam đoan các thính giả nghe qua làn sóng điện không thể nào hình dung nổi. Thảng hoặc nghe, hay đọc thấy, tin một phóng viên, một nhiếp điện ảnh viên hi sinh trong khi theo dõi các cuộc hành quân thì quá lắm cũng chỉ thốt được nửa câu yên ủi "Ờ thì sinh ư nghề tử ư nghiệp". Cái chết và đám táng Khuất Duy Hải vì rơi trực thăng trên cao nguyên đã không hề được báo chí Sài Gòn đăng tin. Anh Tử, cũng rớt trực thăng nhưng may chưa chết, rồi lẫn trốn, rồi lặt lè băng rừng tìm ra đường sống cũng chỉ được bạn bè chung quanh nghe biết, rồi thôi. Những nhọc nhằn và nguy hiểm cận kề phóng viên chiến trường không bao giờ được người dân hậu phương ý thức hay biết đến. Quan trên chẳng màng. Huy chương tuyên dương không hề có. Dạo đó dường như chỉ có một thượng cấp cảm thông được hoàn cảnh nguy nan của những phóng viên chiến trường, mà nếu so ra thì cũng không kém các chiến binh bao nhiêu, để thỉnh thoảng xuất Quĩ Xã Hội của đài ra trao tặng một tí tiền làm quà.
Sáng kiến đáng tri ân đó của Tổng Giám đốc Đài phát thanh Sài Gòn, Trung Tá Vũ Đức Vinh còn được ông xử dụng cho ngay cả các phóng viên nào săn được tin và phát trên đài sớm hơn mọi cơ quan truyền thông khác. 500 đồng bạc thật chẳng đáng bao nhiêu khi đồng tiền cứ ngày một giảm giá. Nhưng ít nhứt thì bạn tôi cũng có đôi chút ấm lòng khi ngồi ăn một tô phở trước khi nhâm nhi ly cà phê trong tiệm "Phở 44" ngay cửa đài. Tất nhiên bạn tôi không ngồi ăn một mình. Tiền thưởng công của bạn được chia đều. Vui vẻ, xuề xòa thưởng thức cho bằng hết "món tiền trời cho" rồi trở vào đài chuẩn bị cho chuyến đi sắp tới. Một chuyến đi mà có thể trở thành chuyến đi gọi là định mạng. Bạn tôi lúc nào cũng thế: chấp nhận công tác đã giao cho mình, không ưu tư, không tính toán, không chạy làng, không tìm cách "bàn giao" cho người khác. Và bao giờ cũng viên mãn hoàn thành.
Đi làm phóng sự chiến trường thực ra chỉ là "chuyện nhỏ". Xây dựng lại cả một đài phát thanh, tuy tạm thời, ở Đà Nẵng, sau khi bị phá tan vào thời mệnh danh là "bàn thờ xuống đường" (1966-1967) mới là một kỳ công. Công của các kỹ thuật viên đa năng trong đài đã đành. Nhưng phải nói là nếu không có bài vở và tiếng nói của đám phóng viên mà trong đó đương nhiên có mặt Vũ Ánh, thì công lao dựng đài của Sở Kỹ Thuật Cục Truyền Thanh cũng chỉ là công cốc. Bạn bè chúng tôi vẫn cùng các anh trong Sở Kỹ Thuật hợp tác, mà tuồng như vui chơi cùng thế sự, kiểu đó: khi làm thì làm cho đến hầu kiệt sức, khi ngưng làm thì quay sang “chè chén” với nhau cho đến khi hết khoản tiền còm trong túi. Có điều cần nói thêm: chè chén là một từ ngữ mang tính thậm xưng đối với bạn tôi bởi đương sự -- tuy rất đa năng đa hiệu và không nề hà tham gia mọi thứ với bạn bè -- nhưng lại không có khả năng uống rượu ("đa năng" cũng là một từ ngữ thậm xưng chăng?). Trong lúc vui đùa, bạn tôi hay bào chữa "Ừ tụi bây một ly rượu thì tao theo một ly cô ca, tới đâu thì tới". "Thằng say cô ca" là biệt danh vẫn được dùng thay cho tên bạn tôi mỗi khi chúng tôi hò nhau đi ăn nhậu thời đó.
Bỏ ngoài cái tệ không biết nhậu rất đáng dung thứ thì có phần chắc là cái tài viết lẹ, viết hay và viết đúng đã dẫn bạn tôi tới chức Chủ Sự Phòng Bình Luận. Và trong những năm cuối mùa, bạn được giao cho Sở Thời Sự (gọi là Trưởng Phân Khối vào thời ngành Truyền Thanh Truyền Hình và Điện Ảnh nằm dưới quyền điều hành của ông Hoàng Đức Nhã). Bình luận trong đài vào thời gian đó chẳng khác chuyện ăn cơm bữa. Các cây viết bình luận trong đài ngày nào cũng phải cung cấp đủ bài cho các xướng ngôn viên đọc mỗi đầu giờ. Cái hay của bạn tôi là tuy phải đảm trách một công việc nhàm chán nhưng nếu tôi nhớ không lầm thì chúng tôi chưa bao giờ bị khiển trách vì tội viết sai chính sách.
Một đôi lần TT Nguyễn Văn Thiệu đến đài đọc trực tiếp một thông điệp "Cùng Quốc Dân", hoặc "Cùng các sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ các cấp"; quần chúng khán thính giả khó mà tưởng tượng được là bản văn bài bình luận đã được viết cùng một lúc với lời trực tiếp truyền thanh và phát hình của TT Thiệu. Rõ hơn, nguyên thủ quốc gia nói tới đâu thì bạn tôi ghi nhận và bình luận theo tới đó. Tuyên đọc xong thông điệp thì ông ra ngoài phòng vi âm. Và chỉ sau một bản hùng ca thì bài bình luận do bạn tôi viết ngay tại chỗ, lập tức được đọc lên. Cũng may mà chưa lần nào ông Thiệu tỏ ra không hài lòng. Cái mẫn tiệp của bạn tôi đã nhiều lần được tưởng thưởng. Đáng tiếc là chỉ bằng một cái bắt tay. Bạn tôi chẳng màng. Công việc nào rồi cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành... như một công tác thường ngày. Hay như một chuyến bay theo các đơn vị quân sự thời còn làm phóng viên chiến trường.
Ngay đây tôi cũng xin phép mở một ngoặc đơn để đính chánh một chi tiết không được đúng, cho rằng bạn tôi có thời đã chấp bút soạn các diễn văn và thông điệp cho TT Thiệu. Trên thực tế thì bạn tôi chưa hề có vinh dự giữ vai trò đó tuy có thừa khả năng. Và dĩ nhiên cũng thừa ý thức trách nhiệm để sẽ điềm đạm và nhún nhường khước từ vinh dự và trọng trách đó.
Biết tính bạn, tôi đoán vậy nhưng có lẽ cũng không sai. Thỉnh thoảng, dạo đó, bạn tôi đôi khi được gọi lên Bộ để được giao trực tiếp các chỉ thị phải viết những bài bình luận theo đúng đơn đặt hàng của Phủ Đầu Rồng. Lên đó, nhận lịnh, lẳng lặng viết và rồi thôi; không khoe khoang vinh dự vừa nhận được mà cũng chẳng than vãn vì đã bị buộc phải qua mặt người trực tiếp chỉ huy mình trong đài.
Tính bạn tôi muôn thuở vẫn trung thực; chiều chuộng bạn bè nhưng luôn luôn thẳng thắn. Với cấp trên thì chẳng ngại nghiêm chỉnh bày tỏ ý kiến của mình. Có thể vì vậy mà Vũ Ánh được trọng nể. Bởi bè bạn lẫn ngay cả các giới chức cao cấp trong hệ thống chỉ huy. Vào những năm ông Hoàng Đức Nhã đảm trách bộ Dân Vận, hình như đã có lần bạn tôi được đề cử Chương Mỹ Bội Tinh cùng với vài nhân viên khác trong đài, mà nghe đồn là có cả Nguyễn Mạnh Tiến và tôi. Nhưng huân chương làm kiểng đó cũng chỉ hững hờ đứng yên ở vị thế được đề cử. Dù vậy tôi vẫn lạc quan coi đó đã là một bằng cớ chứng tỏ sự thương mến, hay ít nhứt cũng là quan tâm, của nhân vật mà dạo đó được coi là đệ nhị thẩm quyền trong chính giới.
Tôi đã suýt quên tính chung thủy của bạn tôi. Đã là bạn bè thì liên hệ đó không bao giờ thay đổi. Và là người bạn tôi yêu thì đã đành là muôn thuở nhưng vẫn chẳng ngại khuyên người mình yêu hãy tìm đường tự cứu sau khi biết mình đã sa cơ và có phần chắc là sẽ rũ tù sau cái ngày cuối tháng tư định mệnh. Tính chung thì cũng đến cả 13 năm từ lúc mang tấm thân đầy mủ máu đứng trong tù nhìn người mình yêu đổ lệ rời đi cho tới khi gặp và nối lại ân tình cũ. 13 năm xa cách, cộng thêm 20 năm đằm thắm trong tình cũ nghĩa xưa, phải nói là biết bao mặn nồng để đáp đền cho lòng chung thủy của cả hai người. Chính nỗi nuối tiếc cho cái ân tình mà đáng lẽ bạn tôi đã phải hưởng được từ trước 1975 đã khiến bọn tôi nhiều khi cứ cật vấn "Làm cái quái gì mà mầy cứ ngồi trong đài vào những ngày vô vọng ấy để phải chịu cảnh lết lê tấm thân tù tội từ nam ra bắc như vậy?". Bạn tôi chỉ cười khè khè "Mẹ, bỏ chạy thì những nhân viên còn trong đài đó làm sao?". Ý thức trách nhiệm ấy chỉ thiếu một ly là đã giúp bạn nằm đội một nấm mồ vô chủ đâu đó trên đất bắc hay gần trại A20. Và cũng may mà bạn đã không bại liệt sau nhiều năm cùm gông trong xà lim biệt giam. Nhưng dù sao thì cũng phải nhận rằng ơn trên đã đền bù bạn tôi trong mấy chục năm cuối đời: 13 năm tù vẫn giữ nguyên được một hàm răng cứng chắc không hư cái nào, nhờ đó mà chén cơm do người mà bạn tôi yêu cung phụng suốt hơn 20 năm qua chắc đã ngon hơn nhiều.
Nhiều lần gặp nhau hàn huyên trong những năm sau nầy, Vũ Ánh dường như đã quên hẳn những năm dài lao lung. Những bài báo hàng ngày do bạn tôi viết từ mấy chục năm nay cho thấy bạn dường như chẳng còn ôm chút hận thù nào. Hình như bạn tôi đã nhìn thấy ở học giả Hoàng Liên một tấm gương rất sáng khi Cụ chỉ một mực ôn tồn, chẳng hé một lời ta thán trong tác phẩm mặc dù Cụ đã bị bắt và đọa đày từ dạo Tết Mậu Thân. Người như Cụ Nguyễn Văn Đãi và bạn tôi có lẽ đã đọc qua và thấu hiểu một châm ngôn của người Ái Nhĩ Lan
Always remember to forget the things that made you sad
But never forget to remember the things that made you glad
Người mà bạn tôi đời đời yêu dấu, người cũng đã đời đời yêu dấu bạn tôi và người mà từ ngày 14 tháng 3 vừa qua đã thành một sương phụ, hơn ai hết, sẽ xác nhận với tất cả rằng bạn tôi quả đã sống một đời như thế: không bao giờ tham lam sân hận mà chỉ luôn nhớ những gì làm mình vui thú trong đời./.
Nguyễn Thiên Ân
(*) Luca 6:29, bản dịch của LM Nguyễn Thế Thuấn, Dòng Chúa Cứu Thế
***
Nhớ Vũ Ánh Từ Việt Nam
Trần Trọng Thức
Phạm Trần ơi,
Ở tuổi chúng ta phải làm quen với chuyện ngày nào đó nghe tin một thằng bạn thân biến mất trên cõi đời này, vậy mà hôm nhận được mail ông báo tin Vũ Ánh đã bỏ anh em mình ra đi, lòng tôi thắt lại. Một nhà báo giỏi, một con người nhân hậu, một đứa bạn chí tình với anh em, một nhân cách hiếm hoi như thế thì ai cũng phải thương tiếc mà thôi. Hồi năm 2011, trong lần gặp mặt anh em ở Houston, do sắp xếp của lão Nhuận, Vũ Ánh và tôi ở chung một phòng khách sạn, hai đứa tôi có dịp ôn lại nhiều kỷ niệm thời làm báo ở Saigon, chia sẻ những nghiệt ngã trong đời sống. Khi tạm biệt nhau Vũ Ánh bảo không biết lần sau có còn gặp mặt đầy đủ anh em hay không, chúng tôi đứa nào cũng cười và không ai nghĩ là điềm gỡ.
Ba tuần lễ trước đây, tôi có phone Vũ Ánh, cũng là chuyện hỏi thăm sức khoẻ thường tình, Ánh nói đám tụi mình thằng nào cũng có sẵn chiếc vé trên tay, vấn đề là thằng nào đi trước thằng nào đi sau thế thôi. Sau Lê Thiệp là đứa nào, không ai nghĩ là Vũ Ánh vì trong số bạn bè hắn còn phong độ hơn tất cả !
Ở xa xôi tôi cầu nguyện Vũ Ánh yên nghĩ cõi vĩnh hằng và nhờ bạn bè tháp hộ một cây nhang tưởng nhớ Ánh.
Từ đáy lòng mình, xin chia buồn cùng chị Yến Tuyết và các cháu.
Trần Trọng Thức
***
VĨNH BIỆT ÁNH !
Trương Lộc
Sau nhiều năm không gặp mặt nhưng qua những hoạt động báo chí mới thấy Ánh vẫn vững mạnh trong bài viết dù trải qua bao nhiêu gian nan thăng trầm.
Dầu vậy khi gặp lại Ánh ở Houston năm 2012, Ánh vẫn không mất đi cái vẻ mặt hiền hòa lúc nào cũng vui vẻ sẵn sàng nhân nhượng.
Những ngày ở Houston cùng anh em đồng nghiệp cũ kể lại những vui buồn trong giới làm báo hồi trước 75 ,Ánh cùng mọi người say sưa kể để luyến tiếc một thời trai trẻ làm báo.
Hôm chia tay ở Houston , Ánh nắm tay từng người nói : “ Không biết bao giờ mới gặp lại tụi mày”, câu nói của Ánh làm tôi nghẹn ngào . Nay thì Ánh đã đi trước rồi . Biết là ở lứa tuổi này rồi anh em sẽ sớm gặp lại nhau thôi nhưng sao vẫn thấy tiếc thương một người bạn dễ thương như Ánh.
Thôi , vĩnh biệt Ánh nghe.
Trương Lộc
- Từ khóa :
- VŨ ÁNH