WASHINGTON - Viện Brookings nhận xét: số việc làm dời ra các vùng ngoại ô tăng trong thập niên qua.
Việc làm tổng quát trong bán kính 3 dặm từ trung tâm thành phố giảm 24.5% năm 2000 và giảm 22.9% năm 2010, theo phân tích công bố hôm Thứ Năm.
Việc làm ở ngoại thành, cách trung tâm thành phố 10 đến 35 dặm tăng 40.9% năm 2000 và tăng 43.1% năm 2010.
Suy thoái làm ngưng chuyển dịch việc làm trong vài năm giữa lúc các ngành chế xuất, xây dựng và bán lẻ xoay trở, cắt giảm nhân lực.
Đến năm 2010, ngoại ô có số việc làm gần gấp đôi thành phố, là khuynh hướng đã diễn ra nhiều thập niên.
Nhà nghiên cứu Elizabeth Kneebone nhận xét: nơi đâu có việc làm là vấn đề với khu vực, là yếu tố ảnh hưởng dài hạn với sản xuất. Theo lời bà, mật độ phát triển ngoài các trung tâm thành phố có thể là sức trì kéo vì 5, 6 lý do. Với dân nghèo không có xe hơi là khó đi làm. Với người có xe, thời gian lái xe dài hơn và tốn tiền xăng hơn. Tốn kém trở thành cao hơn với dân đóng thuế - chi phí về hạ tầng cơ sở cao hơn 40%. Canh tân kém, bởi tương tác ít hơn giữa những người làm ngành nghề tương tự.
Phân tích của Brookings ghi nhận tỉ lệ cấp bằng sáng chế là cao hơn tại những địa phương có mật độ dân số cao. Nhưng, không phải khả năng tạo việc làm ở ngoại thành là kém - tại 1 số khu vực thị tứ như San Francisco, phát triển việc làm tập trung tại những vùng cụ thể, tiêu trừ các yếu tố tiêu cực tiềm ẩn. Các thành phố có tỉ lệ việc làm cao nhất gồm San Jose, Las Vegas, Salt Lake City, New York.
Nhà nghiên cứu Kneebone tin rằng cần đặt kế hoạch và khoanh vùng thích hợp để khuyến khích phát triển, nên phôi hợp ở bậc vùng và các cơ quan chính phủ, như là giữa các cơ quan phát triển kinh tế và giao thông.
Phúc trình của Brookings thực hiện với 100 khu vực thị tứ lớn nhất chiếm khoảng 2/3 dân số và việc làm toàn quốc.
Việc làm tổng quát trong bán kính 3 dặm từ trung tâm thành phố giảm 24.5% năm 2000 và giảm 22.9% năm 2010, theo phân tích công bố hôm Thứ Năm.
Việc làm ở ngoại thành, cách trung tâm thành phố 10 đến 35 dặm tăng 40.9% năm 2000 và tăng 43.1% năm 2010.
Suy thoái làm ngưng chuyển dịch việc làm trong vài năm giữa lúc các ngành chế xuất, xây dựng và bán lẻ xoay trở, cắt giảm nhân lực.
Đến năm 2010, ngoại ô có số việc làm gần gấp đôi thành phố, là khuynh hướng đã diễn ra nhiều thập niên.
Nhà nghiên cứu Elizabeth Kneebone nhận xét: nơi đâu có việc làm là vấn đề với khu vực, là yếu tố ảnh hưởng dài hạn với sản xuất. Theo lời bà, mật độ phát triển ngoài các trung tâm thành phố có thể là sức trì kéo vì 5, 6 lý do. Với dân nghèo không có xe hơi là khó đi làm. Với người có xe, thời gian lái xe dài hơn và tốn tiền xăng hơn. Tốn kém trở thành cao hơn với dân đóng thuế - chi phí về hạ tầng cơ sở cao hơn 40%. Canh tân kém, bởi tương tác ít hơn giữa những người làm ngành nghề tương tự.
Phân tích của Brookings ghi nhận tỉ lệ cấp bằng sáng chế là cao hơn tại những địa phương có mật độ dân số cao. Nhưng, không phải khả năng tạo việc làm ở ngoại thành là kém - tại 1 số khu vực thị tứ như San Francisco, phát triển việc làm tập trung tại những vùng cụ thể, tiêu trừ các yếu tố tiêu cực tiềm ẩn. Các thành phố có tỉ lệ việc làm cao nhất gồm San Jose, Las Vegas, Salt Lake City, New York.
Nhà nghiên cứu Kneebone tin rằng cần đặt kế hoạch và khoanh vùng thích hợp để khuyến khích phát triển, nên phôi hợp ở bậc vùng và các cơ quan chính phủ, như là giữa các cơ quan phát triển kinh tế và giao thông.
Phúc trình của Brookings thực hiện với 100 khu vực thị tứ lớn nhất chiếm khoảng 2/3 dân số và việc làm toàn quốc.
Gửi ý kiến của bạn