Nhiếp ảnh gia Brian Doan sẽ triển lãm bộ ảnh tài liệu về các thuyền nhân Việt còn sót ở Phi Luật Tân.
Tiếp tân sẽ là Thứ Bảy 17-4, 9 giờ sáng tới 3 giờ chiều.
Dưới đây là bài viết của Brian Đoàn về bộ ảnh này.
Những Người Bị Lãng Quên
Vào một chiều mưa tầm tã cuối tháng chín năm 1980, từ một ngôi làng nhỏ cách đông bắc Sài Gòn chừng trăm cây số, gia đình tôi nhận được bức điện tín mang vỏn vẹn mấy dòng chữ “Huy và Tuấn đã đến Palawan bằng an”. Dưới bức điện ký tên Tân, một người anh họ ở tiểu bang California, báo tin anh trai tôi và người bạn đã đến được trại tị nạn Palawan, Phi Luật Tân. Gia đình tôi lặng đi trong xúc động rồi vỡ òa trong hạnh phúc. Sau nhiều tháng lo lắng chờ đợi, bức điện xuất hiện như một phép mầu. Kể từ đó, cái tên “Palawan” in sâu vào đầu óc non nớt của tôi như một vùng đất của hy vọng, vùng đất của huyền thoại, một thiên đường của những người Việt tị nạn. Tôi vô cùng nuối tiếc đã không thể theo anh tôi ra đi.
Tháng Giêng năm 2004, gần một phần tư thế kỷ sau, tôi cuối cùng đã được đặt chân lên vùng đất “huyền thoại” ấy, không phải là một thuyền nhân mà là một nhiếp ảnh gia tài liệu cho dự án Người Việt Lưu Vong. Palawan không giống vùng đất mơ ước trong trí tưởng tượng của thuở nhỏ. Thay vậy, tại đây tôi gặp những đồng bào khốn khổ của tôi - những thuyền nhân Việt Nam “còn lại” và gia đình con lai, có người đã đến đây trước cả khi tôi định cư ở Mỹ vào năm 1991.
Trại tị nạn Palawan nằm trên hòn đảo Palawan phía Tây nước Phi, cạnh thành phố Puerto Princesa. Trại nằm sát bờ biển, giáp ranh với phi trường Puerto Princesa. Đứng ở đây tôi có thể thấy được phi đạo và những hàng máy bay chờ cất cánh; cũng chính nơi này, hàng trăm người Việt đã bị cưỡng bức hồi hương cho đến khi có sự can thiệp của Hội nghị Giáo mục Công Giáo Phi vào năm 1996. Tôi có thể hình dung ra hình ảnh của hàng trăm ngàn người Việt khác bị cưỡng bức từ các trại Hồng Kông, Mã Lai, Nam Dương, và Thái Lan vào những năm 1990.
Tôi men theo một lối mòn dẫn đến một cái giếng cũ, thành giếng còn thấy tên những thuyền nhân đến đảo năm 1980, không có tên anh tôi. Rải rác khắp trại là những tảng đá ghi khắc những câu chuyện vượt biển của thuyền nhân. Cách đó không xa là những lán nhà bị đốt cháy, những gia đình người Việt còn sót lại vừa bị bắt buộc rời khỏi trại một vài tuần trước khi tôi đến. Một búp bê nằm lăn lóc trên đất, cạnh một cối xay gạo tự chế. Trên chiếc áo của búp bê có mang một cái tên, giờ đây đã phai nhạt theo cái nắng và thời gian – có thể là tên của một bé gái Việt Nam nào đó.
Trên đường trở về khách sạn, Minh đưa tôi đến một bãi biển nhỏ. Chúng tôi ngồi im lặng nhìn những con sóng nối nhau đổ vào bờ, chờ chiều xuống. Xa xa cách tôi khoảng chừng trăm thước, xác một con thuyền lật úp, nổi bập bềnh trên sóng. Xa hơn nữa, bên phía kia của biển là Việt Nam. Chỉ mất chừng 75 phút đường hàng không từ Palawan đến Sài Gòn; đồng bào tôi phải trải qua hàng tuần, thậm chí hàng tháng, vượt biển trên những chiếc thuyền mong manh, máy móc cũ kỹ nghèo nàn, đối mặt với bao nhiêu hiểm họa và tai ương của biển cả. Nhiều người đã vĩnh viễn không bao giờ còn thấy được lại đất liền, trong số họ có hai người anh em họ thân thuộc Toản và Quang của tôi.
Khi tôi đến Palawan, những người Việt còn lại đang chuẩn bị cho đêm văn nghệ đón giao thừa. Tôi nghe lại những ca khúc về nỗi buồn tị nạn và thân phận lưu vong. Những ca khúc này, rất thịnh hành cách đây 20 năm, nay đã biến mất trong các chương trình ca nhạc của người Mỹ gốc Việt, nhưng chúng xem ra vẫn còn được ưa chuộng bởi những thuyền nhân Việt Nam ở Phi Luật Tân này. Dường như đời sống của họ bị giam hãm một chỗ, tách xa đời sống văn minh - bị lãng quên bởi thế giới tự do và ngay cả chính đồng bào của họ, những người có số phận may mắn hơn.
Tôi bị chứng mất ngủ sau khi trở về lại Mỹ, ám ảnh bởi những gì tôi được chứng kiến. Tôi nhớ nỗi buồn trong ánh mắt của hai bé Kim và Ngân. Tôi nhớ những giọt nước mắt hồi tưởng của chị Vân trong câu chuyện vượt biển và ngậm ngùi vì không thể rời khỏi Palawan. Tôi nhớ những nụ cười hy vọng của đồng bào khi tôi cầu chúc sẽ gặp lại họ, dĩ nhiên là trên đất Mỹ. Tôi gọi họ là “Những Người Bị Lãng Quên,” nhưng tôi mong tiếng nói của họ sẽ được lắng nghe và rồi họ sẽ có được cơ hội định cư ở Mỹ hoặc ở một nước thứ ba. Họ đã đánh đổi mạng sống cho tự do – và nhiều người đã mất. Họ đã chôn vùi tuổi xuân và ước mơ cho một đời sống mới ở một thế giới mới. Ước muốn của họ giờ đây trở thành ước mơ của tôi.
Đoàn Brian