Giáo sư Nguyễn Quốc Khải đang chất vấn Đại sứ Karan K. Bhatia trong buổi họp về WTO.
Như đã loan thông tin rộng rãi trên hệ thống truyền thông Việt nam tại Hoa Kỳ, do lời yêu cầu của hai Dân biểu Lynn Daucher và Trần Thái Văn thuộc tiểu bang California, Cơ quan Mậu Dịch Hoa Kỳ do Đại sứ Karan K. Bhatia hướng dẫn đã có buổi trình bầy một số khúc mắc trong Hiệp Định Thương Mại Việt -Mỹ.
Phiên họp đã được diễn ra vào trưa thứ Sáu 23/6/06 tại văn phòng Quốc hội Hoa kỳ. Cùng một lúc, Quốc hội California đang bàn thảo quan trong về ngân sách của tiểu bang, hai vị dân cử nêu trên đã yêu cầu Dân biểu liên bang Ed Royce, một đồng minh chính trị tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, đại diện họ để trình bầy những quan tâm về Hiệp Ước Thương Mại vừa được ký kết giữa Hoa Kỳ và Việt Nam tại Saigon.
Washington DC -- DB Ed Royce đã triệu tập một buổi họp vào sáng nay, thứ Sáu, 23/10/2006 tại văn phòng Hạ Viện Hoa Kỳ giữa Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa-Kỳ (U.S. Trade Representative Office - USTR) và một số hội đoàn đại diện cho quyền lợi của cộng đồng Việt-Mỹ. Dân Biểu Frank Wolf bận việc nên đã không dự được phiên họp này.
Phái đoàn USTR gồm có Đại Sứ Karan K. Bhatia, nhân vật thứ 2 của Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa-Kỳ và 3 chuyên viên về việc thương thuyết WTO và Việt-Nam. Phái đoàn đại diện Việt Nam gồm 4 diễn giả là Bà Jackie Bong-Wright, Chủ Tịch Hội Cử Tri Việt-Mỹ, TS Nguyễn Đình Thắng, Giám Đốc Điều Hành của Boat People SOS, ô. Nguyễn Ngọc Bích, Chủ Tịch Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa-Kỳ, và ô. Nguyễn Quốc Khải, Chủ Tịch của Việt-Nam Review, Inc. Ngoài ra còn có Nhà Báo Bùi Tín, ba Nhà Văn Trương Anh Thuỵ, Phong Thu, và Trần Nhật Kim, kỹ sư Lữ Anh Thư và các ông Đào Hiếu Thảo, Võ Thành Nhân, và Nguyễn Long.
Mở đầu phiên họp, DB Ed Royce tuyên bố rằng theo khuôn khổ thương mại song phương hiện nay chính phủ Việt-Nam dùng độc quyền để ngăn cấm sách báo, đĩa nhạc và phim ảnh, v.v. Điều này trái với nguyên tắc tự do thương mại và gây thiệt hại cho những nhà sản xuất Hoa-Kỳ. DB Royce hi vọng rằng buổi họp hôm nay sẽ thảo luận về những vấn đề này.
Ô. Việt Dzũng dự trù tham dự buổi họp nhưng phút chót không đến được vì thời tiết vào đêm hôm trước rất xấu nên các chuyến bay từ California đến Hoa-Thịnh-Đốn đã bị hủy bỏ. Thay mặt cho ô. Việt Dzũng, bà Jackie Bong-Wright đã trình bầy quan điểm của hai công ty Asia Entertainment, Inc. và Thúy Nga Paris. Theo đó CSVN duy trì độc quyền nhập cảng về sách báo, sản phẩm thính thị và văn hóa đã làm cho các công ty nay thiệt hại lớn lao về tài chánh, không kể đến việc sao chép và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến những sản phẩm sản xuất tại Mỹ.
Luật lệ Việt Nam cho thấy công dân Việt Nam nào bị bắt vì bán, phân phối hay sở hữu những sản phẩm văn nghệ của Asia Entertainment, Thúy Nga Paris, Vân Sơn ..... có thể bị phạt tù tối đa 18 năm và bị phạt một số tiền phạt lớn, mặc dù sản phẩm này chỉ thuần tuý về văn hoá và nghệ thuật.
Ngành âm nhạc, phim ảnh và truyền thông Việt Nam ở hải ngoại yêu cần USTR yểm trợ kỹ nghệ này để những sản phẩm của họ được tiếp cận thị trường Việt-Nam như những ngành kỹ nghệ khác trên căn bản thương mại song phương.
Ô. Nguyễn Ngọc Bích phát biểu rằng việc xuất bản sách báo tiếng Việt rất cần thiết. Thứ nhất là để phát triển văn hoá Việt Nam ở hải ngoại trong khi chính quyền Hà Nội phá hoại, bóp méo nền văn hóa Việt Nam để phục vụ chế độ Mác Xít. Chính vì lý do đó nhu cầu về sách sản xuất ở hải ngoại rất cao ở Việt-Nam. Nhiều sách đưa lén vào Việt-Nam đã được in ấn hay sao chụp và phổ biến bằng nhiều cách.
Lãnh vực buôn bán sách báo giữa Việt-Nam và Hoa-Kỳ có những điều bất bình thường. Lý do là một phụ bản của Hiệp Định Thương Mại Việt-Mỹ cho phép Việt Nam xuất cảng không giới hạn tất cả mọi sản phẩm văn hóa vào Hoa Kỳ trong khi đó lại cho phép công ty quốc doanh Việt Nam quyền kiểm duyệt và lựa chọn sách nào được nhập cảng sách nào bị cấm.
Ô. Bích tố cáo rằng những đĩa nhạc hay hình sản xuất bởi những công ty như Thúy Nga Paris, Asia Entertainment, hay Vân Sơn lập tức được nhập cảng lậu vào Việt Nam và sao chép bất hợp pháp thành hàng trăm ngàn bản, được bày bán tại Việt Nam.
Tình trạng trao đổi nghệ sĩ trình diễn cho thấy rõ sự bất công rõ rệt trong sự giao thương giữa Hoa-Kỳ và Việt-Nam. Các nghệ sĩ từ Việt-Nam được tự do vào Mỹ để trình diễn. Ngược lại, những nghệ sĩ hải ngoại gặp rất nhiều khó khăn như phải nộp bài hát trước khi trình bầy.
Ô. Bích kêu gọi USTR bảo đảm sự bình đẳng trong sự trao đổi văn hóa và ngoại thương nói chung giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Giáo sư Nguyễn Quốc Khải, cố vấn cho Dân biểu Trần Thái Văn về WTO, nhắc lại tiến trình vận động USTR đòi CSVN hủy bỏ độc quyền nhập cảng sách báo, sản phẩm thính thị và văn hóa bắt đầu từ năm 2004 vì đó là nguyên nhân khiến sách báo hải ngoại bị cấm tại Việt-Nam. Sáu dân biểu Hoa-Kỳ là các ông Frank Wolf (CH, Virginia), Tom Davis (CH, Virginia), Chris Smith (CH, New Jersey), Van Hollen (DC, Maryland), và hai bà Loretta Sanchez (DC, California) và Joe Lofgren (DC, California) đã yêu cầu USTR thương thuyết để chấm dứt độc quyền kể trên như một điều kiện để vào WTO.
Phó Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ lúc đó là bà Josette Sheeran Shiner đã cam kết rằng Hoa Kỳ sẽ đòi hỏi Hà Nội cho ấn phẩm của Hoa Kỳ tiếp cận thị trường Việt Nam không hạn chế và bảo đảm rằng các công ty quốc doanh phải đối sử bình đẳng với mọi sản phẩm. Từ sau khi Hoa Kỳ và Việt Nam ký kết thỏa hiệp WTO song phương vào ngày 31/5/2006, không ai biết được kết quả về sự thương thuyết về sách báo, v.v. như thế nào. Ô. Khải đã đặt câu hỏi trực tiếp này với phái đoàn USTR.
Đại Sứ Karan K. Bhatia trước hết đã trả lời vắn tắt rằng theo luật WTO, Việt Nam được quyền duy trì xí nghiệp quốc doanh. Như tại một số quốc gia hội viên WTO khác, Việt Nam được phép nhập cảng hàng hóa qua xí nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên việc hạn chế nhập phải tuyệt đối dựa trên tiêu chuẩn thương mại. Theo ông Bhatia luật lệ WTO rất nghiêm chỉnh về lãnh vực này để tránh vấn đề lạm dụng. Ông cam kết sẽ truy tố Việt-nam ra toà án WTO nếu có sự vi phạm.
Ông Bhatia giải thích thêm theo luật WTO, Việt Nam cũng như Hoa Kỳ trên nguyên tắc được phép thi hành một số chính sách như sau:
* Duy trì công ty quốc doanh.
* Hạn chế hoặc cấm kinh doanh đối với một số sản phẩm và dịch vụ.
* Đặt điều kiện về kinh doanh đối với một số sản phẩm và dịch vụ.
Vấn đề đặt ra là Việt Nam phải có những luật lệ minh bạch và phù hợp với WTO. Việt Nam không thể cấm đoán sản phẩm một cách tùy tiện. Trong cuộc thương thuyết đa phương sắp tới (dự trù vào tháng 7/2006), những vấn đề này sẽ được bàn cãi kể cả những lãnh vực liên quan chung tới mọi hội viên WTO như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và kiểm duyệt. Với luật lệ minh bạch, USTR hi vọng rằng việc cấm đoán sẽ phải thu hẹp lại.
Ô. Bhatia đã từ chối không trả lời trực tiếp vào câu hỏi của ô. Khải, nhưng rõ ràng ông ám chỉ rằng, Hoa-Kỳ chưa thành công trong việc đòi hỏi CSVN hủy bỏ ngay lập tức độc quyền nhập cảng sách báo, các đĩa nhạc hay phim ảnh, văn hoá phẩm, v.v. của các công ty quốc doanh. Nhưng ông đã đưa ra một giải pháp khác. Qua những luật lệ rõ ràng về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và kiểm duyệt, việc cấm đoán tùy tiện và toàn diện sẽ chấm dứt. Theo ông, qua những sửa đổi về luật lệ theo sự đòi hỏi của WTO, cơ hội để những sản phẩm sáng tạo (sách báo, các đĩa nhạc hay phim ảnh, văn hoá phẩm, v.v.) du nhập vào Việt-Nam sẽ gia tăng.
Đại Sứ Bhatia cho biết thêm trong lãnh vực quyền kinh doanh (trading rights), Việt-Nam đã đồng ý cho tự do buôn bán (full trading rights) một số sản phẩm như phim điện ảnh, DVD, và CD, v.v. vào năm 2009. Trong một số trường hợp, quyền này được thực hiện vào năm 2007. Đây là một thành công lớn. Tuy nhiên, chúng ta cần có một văn bản đầy đủ về thỏa hiệp WTO song phương mà Việt-Nam và Hoa-Kỳ đã ký kết vào ngày 31/5 vừa qua mới có thể biết thêm chi tiết về lãnh vực này.
Ô. Bhatia nhấn mạnh rằng Việt-Nam cần có quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (permanent normal trade relations – PNTR) để vào WTO và chỉ trong trường hợp này các nước buôn bán với Việt-Nam mới buộc Việt-Nam phải theo luật WTO. Ô. Bhatia đã được trả lời ngay rằng cộng đồng Việt-Nam ở hải ngoại không chống việc cho Việt-Nam hưởng quy chế PNTR, không chống Việt-Nam vào WTO. Tuy nhiên ông đã ghi nhận việc giới kinh doanh Việt Nam tại Hoa Kỳ đang đòi hỏi Hiệp định WTO giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phải dựa trên sự bình đẳng, mậu dịch song phương.
Ô. Bhatia thừa nhận rằng vấn đề cấm đoán sách báo, phim ảnh, v.v. tại Việt-Nam không nhằm mục đích thương mại, mà mục tiêu chính là để bảo vệ quyền lực của Đảng Cộng Sản. Trong những cuộc thương thuyết vừa qua về việc gia tăng khả năng tiếp cận thị trường, Việt Nam đã đồng ý thay thế những hàng rào cản phi quan thuế bằng những biện pháp quan thuế. Việc hạn chế nhập cảng phải dựa trên lý do thương mại. Điều này trực tiếp hạn chế những giới hạn phi lý. Theo ô. Bhatia, đây là sự thành quả quan trọng. Lãnh vực này sẽ còn được tiếp tục trong cuộc đàm phán WTO đa phương như đã trình bầy ở trên.
TS Nguyễn Đình Thắng đặc biệt nói về sách báo tôn giáo. Ông cho rằng Hiệp Định Thương Mại song phương 2001 không có lợi cho Hoa Kỳ ở một điểm là Hiệp Định này đã cho phép Việt Nam loại bỏ cả một loại hàng hóa thay vì từng mặt hàng một. TS Thắng cho biết ngay cả sách báo về tôn giáo sản xuất trong nước cũng bị cấm đoán. Ông đưa ra hai trường hợp điển hình là sách của LM Nguyễn Văn Lý phải đưa ra hải ngoại in rồi gửi trở về Việt-Nam, nhưng đã bị CSVN tịch thu. Sách viết về Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ in tại Hoa-Kỳ gửi về Việt-Nam mới đây cũng chịu chung một số phận. CSVN không những cấm nhập cảng sách báo nói chung và sách báo tôn giáo nói riêng, mà họ còn tìm cách triệt hạ nhu cầu về sách báo ở trong nước.
CSVN cho phép nhập cảng một số báo chí ngoại quốc như tờ New York Times mà ông Bhatia đề cập đến và một số thánh kinh bằng tiếng Anh. Lý do là để lừa phỉnh những người ngoại quốc. Sách báo ngoại ngữ không đáp ứng nhu cầu của đa số quần chúng. TS Thắng chấm dứt bài thuyết trình của ông bằng một câu hỏi ngắn gọn trực tiếp gửi đến phái đoàn USTR: “Bao giờ chúng tôi có thể gửi sách báo về Việt-Nam"”
Để trả lời câu hỏi trên, phái đoàn USTR cho biết Hoa Kỳ sẽ thảo luận với Việt Nam về vấn đề này trong cuộc đàm phán WTO đa phương vào tháng 7. Hoa Kỳ sẽ yêu cầu Việt Nam ấn định những tiêu chuẩn và xếp loại sách báo cho phép nhập cảng. Trong khi đó, ông Lương Văn Tự, Thứ Trưởng Bộ Thương Mại trong một bài bình luận đăng trong Tạp Chí Cộng Sản sau khi vòng đàm phán song phương cuối cùng chấm dứt đã viết rằng “Ta kiên trì đấu tranh vấn đề phân phối văn hóa phẩm, như sách báo, tạp chí... là lĩnh vực UNESCO giải quyết, nên phải bỏ ra, chứ không đưa vào WTO.”
Sự kiện này cho thấy vấn đề sách báo chưa được giải quyết xong qua vòng đàm phán song phương và bây giờ sẽ tiếp tục trong vòng đàm phán đa phương vào tháng 7 sắp tới.
DB Ed Royce cho biết văn phòng ông sẽ đúc kết nội dung của phiên họp, soạn thảo một bản văn điều trần để cho USTR dùng làm tài liệu căn bản trong cuộc thương thuyết vào tháng 7, 2006. Ông yêu cầu USTR thông báo cho văn phòng của ông những diễn tiến của cuộc đàm phán đa phương này.
Diễn tiến tốt đẹp này cho người ta hi vọng rằng những buổi họp tương tự sẽ được tổ chức trong tương lại để nói lên sự quan tâm, và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng Việt ở hải ngoại.
"Đây mới là bước khởi đầu trong việc đòi hỏi công bằng trong Hiệp định WTO giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Dân biểu Lynn Daucher và tôi kêu gọi giới thương gia, cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại tiếp tay với chúng tôi trong diễn trình tranh đấu này . Chúng tôi sẽ có kế hoạch quần chúng rộng lớn để vận động các vị dân biểu liên bang quan tâm đến quyền lợi kinh tế và các vấn đề tự do, dân chủ, tôn giáo trước khi Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận để Việt Nam vào WTO", Dân biểu Trần Thái Văn nói.
Nam Phương - Minh Toàn - Vietnam Review tổng hợp từ Hoa Thịnh Đốn