<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />
Đại Sư Tây Tạng Ngarampa Tashi.
Bà Hằng Tâm, phật tử vùng HTĐ đã tổ chức một buổi thuyết giảng về “Mật Tông, con đường đốn ngộ đưa tới sự giải thoát” do Đại Sư Tây Tạng Ngarampa Tashi trình bày vào lúc 2 giờ chiều ngày 8 tháng Tư tại <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Có khoảng một trăm Phật tử tham dự, trong đó có nhiều người ngoại quốc. Bên trái Đại Sư có hai thông dịch viên, một người dịch tiếng Tây Tạng sang tiếng Anh và một người dịch từ tiếng Anh ra tiếng Việt. Bên phải trên bàn có nhiều hoa quả, ánh nến lung linh và hương trầm bay tỏa làm cho không khí thêm phần trang nghiêm và thanh tịnh.
Được biết Đại Sư Tashi đã cùng gia đình vượt biên qua Ấn Độ cùng với Đức Đạt Lai lạt Ma. Thầy xuất gia từ năm 13 tuổi, học đạo trong Viện Đại Học Phật Giáo Guymed Tantric, một trong năm Viện Đại Học lớn của Tây Tạng (trường cũng dời qua Ấn Độ). Thầy Tashi đậu bằng Tiến Sĩ về Mật Tông, thường được mời đi thuyết giảng về Mật Tông nhiều nơi trên thế giới. Thầy đang hoằng pháp ở HK sáu tháng. Ngoài hoằng dương Phật Pháp, Thầy còn mong thành lập trường “Mind Training Buddhist School” tại Mông Cổ, vừa giúp đỡ 100 trẻ em nghèo khổ vừa giáo hóa các em theo truyền thống Phật Giáo. Ngày 4 tháng 3 Đại Sư Tashi được Tòa Thị Chính Baltimore,
Qua lời thông dịch của Ông Nguyễn Phong, Thầy Tashi nói, tôi biết hầu hết quý vị đã có kiến thức căn bản về các phương pháp tu tập, mà phương pháp nào cũng nhấn mạnh đến những điều kiện tiên quyết như sự khước từ, bồ đề tâm và không tính. Để tiếc kiệm thì giờ, tôi sẽ nhấn mạnh hơn về Mật Tông.
Đề tài sẽ gồm bốn đề mục: Mật Tông là gì, tại sao Đức Phật dạy về Mật Tông, sự khác biệt giữa Mật Tông và những đường lối tu tập khác, và điều thứ tư là những cá biệt của pháp môn Mật Tông.
Mật Tông bắt nguồn từ chữ “Tantrayana”, ý nghĩa chính của nó là phương pháp bảo hộ tâm ta trên bước đường tu, giúp chúng ta không lệ thuộc vào những cái khái niệm, chấp thủ, luyến ái thông thường. Mật Tông giúp chúng ta thoát khỏi những trói buộc thường tục.
Đặc điểm của Mật Tông là không coi kết quả của sự tu hành của mình sẽ đạt được trong tương lai, mà kết quả của sự tu hành được coi là đã đắc thụ rồi. Mật Tông là một pháp tu rất quý hiếm, trong một ngàn vị xuất hiện chỉ có ba vị Phật giảng dạy Mật Tông, trong đó có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Một đặc điểm khác, Mật Tông là phương pháp tốc hành, đốn ngộ, chúng ta có thể đạt đến giác ngộ ngay trong đời này, chứ không cần phải tu nhiều kiếp như trong Kinh Thừa (tiệm tiến) và nhiều pháp môn khác.
Ngoài những đặc điểm như trên, Mật Tông cũng như các môn phái khác, mục tiêu là giúp cho hành giả đạt đến sự giác ngộ viên mãn, chân như, nên Mật Tông có đầy đủ những điều giáo huấn của Đức Phật trong kinh thừa. Chẳng hạn như con người trong dục giới có hai bản tính là giả hợp và bất tịnh, vì vậy Đức Phật dạy chúng ta phải cố gắng thanh lọc, biến cái thân bất tịnh này thành thân thanh tịnh.
Sau khi chấp nhận đại hỷ lạc thì Mật Tông đưa ra phương pháp làm thế nào giúp hành giả, người tu biến sự hỷ lạc thành ánh sáng rồi vận dụng sự hiểu biết về “không tính” đến mức độ vi tế, để nắm bắt được thực tại tối hậu, không nô lệ cho những cái khái niệm hay hình tướng của tục giới. Đấy là cái đặc điểm của Mật Tông.
Mật Thừa đưa ra bốn phương pháp gọi là “Tứ Diệu Quán”: Thứ nhất là Tịnh Hóa Môi Trường, Tịnh Hóa Thân Tâm, Tịnh Hóa Lạc Thú, Tịnh Hóa Hành Động của mình. Nếu một tông phái nào chủ trương không nhấn mạnh vào tính cách thanh tịnh hay tứ diệu quán này, thì đó không phải là Mật Tông.
Về tịnh hóa môi trường, người tu hành được khuyến khích quán tưởng rằng nơi mình tu hành hay cảnh sống chung quanh mình là một cõi cung điện, là cõi trời; cảnh giới chung quanh mình không phải là nơi tầm thường mà là nơi của Đức Phật và quán tưởng mình chính là một Đức Phật, một Chư Thiên.
Về quán tưởng thân của chúng ta, chúng ta không nhìn bằng khái niệm cũ, bất tịnh, mà quán tưởng nó là thân thanh tịnh. Chúng ta không coi chúng ta sẽ là những vị Phật trong tương lai mà quán tưởng mình là một vị Phật trong hiện tại.
Về tịnh hóa lạc thú, chúng ta không nên nhìn lạc thú bằng con mắt thường, bằng khái niệm thường, mà nhìn những thứ mà chúng ta đang thụ hưởng như là những gì rất linh thiêng. Thực phẩm chúng ta ăn hằng ngày không phải vật thường chúng ta mua, mà đó là vật cúng dường, tinh khiết, tất cả những gì chúng ta có là những thứ cao quý, được dâng tặng, cống hiến.
Cái tịnh hóa thứ Tư là tịnh hóa những hành động của mình. Khi chúng ta quán tưởng mình là Chư Thiên, là một vị Phật, thì chúng ta phải làm những gì có tính cách thiêng liêng, trong sáng, cứu nhân độ thế như một vị Phật. Mọi việc chúng ta làm phải có tính cách lợi tha, tinh khiết như hành động, hành vi của một Đức Phật.
Mật Tông chia làm bốn tầng lớp, thấp là Mật Tông Hành Động, Mật Tông Tư Duy , Du Dà Mật Tông và Mật Tông Du Dà Tối Thượng. Có những khác biệt giữa những cấp bậc, vì những phương pháp của Mật Tông rất vi diệu, trừu tượng, vì vậy các vị đại sư nghĩ ra những phương cách cụ thế để giúp chúng ta đạt đến chân lý trựu tượng đó.
Các vị bồ tát không thể trở thành Phật chính vì các vị bồ tát chưa hiểu được cái vi tế của chữ “Không”. Vậy điều quan trọng, những hành giã cũng như những vị bồ tát phải hiểu tận cùng cái nghĩa vi tế của “Không Tính” và phải hiểu tất cả những hình tượng ở trong pháp tu Du Dà Tối Thượng đều là biểu tượng mà thôi. Sự phối hợp của Mật Tông nói tới là sự phối hợp của phương tiện và trí tuệ, không nên hiểu những hình tượng Mật Tông dùng theo khái niệm thông thường
Phần trình bày của Đại Sư Tashi tới đây thì chấm dứt , theo sau là phần giải đáp những thắc mắc do các phật tử tham dự nêu lên. Chương trình được chấm dứt vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày.