Ngày 6 tháng 8, 2002 vừa qua, tổng thống George W. Bush đã ký ban hành đạo luật HR-1209, có tên là "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ" (Child Status Protection Act). Cho phép con cái sanh ngoài Hoa Kỳ của những công dân Mỹ đã nhập tịch, sẽ không bị mất thứ tự ưu tiên khi họ xin "Thẻ Xanh", hay nhập cảnh Hoa Kỳ, dù đã qua 21 tuổi. Nói một cách khác là những người con của một công dân Mỹ, có thể giữ nguyên "tình trạng con trẻ" (child status), và vẫn thuộc thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate relatives), dù đã bước qua tuổi 21, trước khi được phỏng vấn nhập cảnh, hoặc điều chỉnh tình trạng di trú. Đạo luật này đồng thời cũng giải tỏa được những hạn chế khắt khe, thường áp dụng cho các trường hợp con độc thân của thường trú nhân.
Theo các điều lệ di trú trước đây, đối với những trẻ em sanh ở nước ngoài, nếu dưới 21 tuổi và đang ở tình trạng độc thân, thì chiếu khán dành cho họ, luôn luôn có hiệu lực hoặc nhận được ưu tiên cao. Tuy nhiên vì tình trạng ứ đọng của hồ sơ bảo lãnh, khiến cho sở di trú Hoa Kỳ, hay các lãnh sứ quán Mỹ thường trễ nải và trong nhiều trường hợp, chỉ cứu xét hồ sơ sau khi các trẻ em này quá 21 tuổi, do đó họ đã mất đi "tình trạng con trẻ" (child status) và bị chuyển sang những thứ tự ưu tiên khác, mà sự giải quyết sẽ phải kéo dài thêm nhiều năm nữa. Thí dụ như trường hợp những người con dưới 21 tuổi của công dân Mỹ, đang ở trong thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate relatives), nhưng khi qua 21 tuổi thì đương sự sẽ bị mất đi "tình trạng con trẻ", và bị chuyển qua dịện F#1 (first preference category), hay vẫn thường được gọi là "thứ tự ưu tiên số #1". Và chiếu theo tình trạng chiếu khán hiện nay (8/2002), thì họ sẽ phải chờ khoảng 5 năm trở lên mới được nhập cảnh Hoa Kỳ hoặc mới nhận được "Thẻ Xanh" (thời gian này còn kéo dài hơn nữa đối với những người đến từ Mễ Tây Cơ hoặc Phi Luật Tân). Riêng đối với trường hợp con độc thân dưới 21 tuổi của những thường trú nhân, đang ở diện "thứ tự ưu tiên #2A, nhưng nếu bị chuyển sang diện "ưu tiên #2B khi vừa 21 tuổi, thì thời gian chờ đợi chiếu khán hiệu lực, sẽ phải kéo dài thêm tối thiểu là từ 3 đến 4 năm nữa.
Với đạo luật mới vừa được ban hành, thì "tình trạng con trẻ" (child status) sẽ được ấn định kể từ ngày nộp đơn, hoặc khi cha, mẹ nhập tịch, hay lúc đương sự trở lại tình trạng độc thân, chứ không phải lúc sở di trú phỏng vấn hoặc cứu xét hồ sơ, vì thế họ vẫn được ở trong thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate ralative), hay trong diện 2A.
Ngoài ra "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ" cũng còn được áp dụng cho các trường hợp xin tỵ nạn ở Hoa Kỳ, và quan trọng hơn nữa là nó sẽ mang tính cách hồi tố (retroactively), vì thế đối với những đơn xin tỵ nạn hoặc bảo lãnh di dân I-130 đã nộp trước đây, rất nhiều con em đang bị rơi vào hoàn cảnh "aged out" (quá tuổi), nay sẽ có thể được thụ hưởng quyền lợi đặc miễn nhân đạo này.
Sau đây chúng tôi xin phân tích những chi tiết quan trọng của đạo luật HR-1209.
- Con trẻ của những Công Dân Mỹ :
Điều khoản Thứ Hai (Section 2) của đạo luật HR-1209, cho phép những người con của các công dân Mỹ nhập tịch, từ nay sẽ được giữ nguyên "tình trạng con trẻ" (child status) vào lúc mà cha mẹ của họ nộp đơn xin bảo lãnh, hay nói rõ hơn là nếu khi nộp đơn, những người con này dưới 21 tuổi, thì dù đến lúc được cứu xét hay phỏng vấn, đương sự đã bước qua tuổi 21, luật mớiï vẫn cho phép được ở trong thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate relatives), thay vì phải bị chuyển qua diện F#1, như luật lệ trước đây.
Còn đối với những người con độc thân, dưới 21 tuổi của thường trú nhân, thì ngay sau khi người cha, hoặc mẹ bảo trợ, nhập quốc tịch Hoa Kỳ, luật mới cũng sẽ được áp dụng. Có nghĩa là từ "thứ tự ưu tiên #2A", đương sự sẽ được chuyển sang thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate relatives). Và cũng được đối sử tương tự như trường hợp vừa đề cập ở trên, dù đến khi được cứu xét hay phỏng vấn, đương sự đã bước qua tuổi 21. Tuy nhiên điều kiện "tình trạng con trẻ" (child status), phải tính vào thời điểm cha, hoặc mẹ nhập tịch chứ không ở lúc nộp đơn.
Ngoài ra trong trường hợp của những người con đã lập gia đình của công dân Mỹ, thuộc "thứ tự ưu tiên #3", nếu họ ly dị hoặc trở thành người góa bụa trước khi 21 tuổi, thì cũng sẽ được thụ hưởng quyền lợi như hai trường hợp kể trên. Và dĩ nhiên điều kiện "tình trạng con trẻ" (child status), sẽ được tính vào thời điểm mà đương sự chấm dứt hôn nhân một cách hợp pháp (legal termination of the marriage), chứ không ở lúc nộp đơn.
- Con trẻ của những Thường Trú Nhân :
Điều khoản Thứ Ba (Section 3) của "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ" áp dụng
một cách phức tạp hơn đối với con cái của những thường trú nhân, và ngôn ngữ sử dụng trong văn bản của đạo luật cũng không được rõ ràng, cần phải đợi cho đến khi bản dự thảo điều lệ ban hành thì chúng ta mới biết thêm chi tiết. Tuy nhiên, nhận định một cách tổng quát, thì trong trường hợp những người con độc thân, dưới 21 tuổi của một thường trú nhân, thuộc "thứ tự ưu tiên #2A", đương sự bắt buộc sẽ bị chuyển sang "thứ tự ưu tiên #2B" ngay khi vừa qua 21 tuổi. Nhưng điều luật mới cho phép họ được khấu trừ thời gian mà sở di trú đã kéo dài để cứu xét đơn bảo lãnh I-130 . Nói một cách khác, dựa vào lúc tuổi của người con khi chiếu khán dành cho "thứ tự ưu tiên #2A" hiệu lực, dù sau đó họ có qua 21 tuổi thì vẫn có thể không mất tình trạng ưu tiên, tùy theo thời gian sở di trú tiến hành thủ tục xét đơn. Thí dụ như trong trường hợp một tờ đơn bảo lãnh phải kéo dài một năm (12 tháng) , thì mới được sở di trú chấp thuận, hoặc phỏng vấn, thế nhưng nếu đương sự chưa qua 22 tuổi, thì vẫn được xem như thuộc "ưu tiên #2A". Với điều kiện là thủ tục điều chỉnh tình trạng di trú hoặc nhập cảnh phải được thực hiện trong vòng một năm.
- Con trẻ của những Người Tỵ Nạn :
Trường hợp con cái độc thân của những người xin tỵ nạn chính trị ngay trên đất Hoa Kỳ (asylees) hoặc đến từ các quốc gia khác (refugees), thì điều khoản Thứ Tư và Thứ Năm (Section 4 & 5) của đạo luật mới cũng sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi trong việc cho phép những người con dù đã trên 21 tuổi vẫn có thể được tháp tùng cùng với gia đình . Không như trước đây, chỉ có những trẻ em dưới 21 tuổi khi cha mẹ được phỏng vấn thì mới đủ điều kiện tháp tùng (derivative). Đạo luật HR-1209 đã ấn định lại "tình trạng con trẻ" (child status) của họ vào thời điểm cha mẹ nộp đơn xin tỵ nạn.
(Chú thích: Dựa theo tinh thần của "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ", thì có lẽ con cái của những người thuộc thành phần cựu nhân viên sở Mỹ hoặc diện ROVR ở Việt Nam hiện nay, sẽ tận hưởng được rất nhiều quyền lợi, bởi vì đa số các đơn xin tỵ nạn của họ đều đã nộp cách đây cả chục năm về trước).
- Thời gian hiệu lực:
Điều khoản Thứ Tám (Section 8) của "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ" ghi rõ rằng đạo luật này có hiệu lực kể từ ngày 6 tháng 8, 2002 tức là ngày tổng thống Hoa Kỳ phê chuẩn, vì thế mà đương nhiên tất cả các đơn xin bảo lãnh gia đình I-130, hoặc xin nhập cảnh Hoa Kỳ theo diện tỵ nạn, diện nghề nghiệp hay di dân theo chương trình xổ số (diversity) đang hoặc chưa được cứu xét, đều thụ hưởng được quyền lợi của đạo luật nói trên, ngoại trừ các trường hợp đã có quyết định chung cuộc (final determination).
Nếu quý vị độc giả cần thêm chi tiết hoặc văn bản của đạo luật HR-1209, xin liên lạc với chúng tôi ở số (213) 251-3460.
Nam Lộc
LTS. Ông Nguyễn Nam Lộc hiện là giám đốc Văn Phòng Di Trú và Tỵ Nạn, cơ quan Bác Ái Công Giáo, tổng giáo phận Los Angeles. Đồng thời cũng là cố vấn luật di trú được Hội Đồng Kháng Cáo Di Trú, Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ (Board of Immigration Appeals - U.S./D.O.J.) chuẩn thuận, để đại diện thân chủ trước Sở Di Trú cũng như trước Tòa Án Di Trú.
Theo các điều lệ di trú trước đây, đối với những trẻ em sanh ở nước ngoài, nếu dưới 21 tuổi và đang ở tình trạng độc thân, thì chiếu khán dành cho họ, luôn luôn có hiệu lực hoặc nhận được ưu tiên cao. Tuy nhiên vì tình trạng ứ đọng của hồ sơ bảo lãnh, khiến cho sở di trú Hoa Kỳ, hay các lãnh sứ quán Mỹ thường trễ nải và trong nhiều trường hợp, chỉ cứu xét hồ sơ sau khi các trẻ em này quá 21 tuổi, do đó họ đã mất đi "tình trạng con trẻ" (child status) và bị chuyển sang những thứ tự ưu tiên khác, mà sự giải quyết sẽ phải kéo dài thêm nhiều năm nữa. Thí dụ như trường hợp những người con dưới 21 tuổi của công dân Mỹ, đang ở trong thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate relatives), nhưng khi qua 21 tuổi thì đương sự sẽ bị mất đi "tình trạng con trẻ", và bị chuyển qua dịện F#1 (first preference category), hay vẫn thường được gọi là "thứ tự ưu tiên số #1". Và chiếu theo tình trạng chiếu khán hiện nay (8/2002), thì họ sẽ phải chờ khoảng 5 năm trở lên mới được nhập cảnh Hoa Kỳ hoặc mới nhận được "Thẻ Xanh" (thời gian này còn kéo dài hơn nữa đối với những người đến từ Mễ Tây Cơ hoặc Phi Luật Tân). Riêng đối với trường hợp con độc thân dưới 21 tuổi của những thường trú nhân, đang ở diện "thứ tự ưu tiên #2A, nhưng nếu bị chuyển sang diện "ưu tiên #2B khi vừa 21 tuổi, thì thời gian chờ đợi chiếu khán hiệu lực, sẽ phải kéo dài thêm tối thiểu là từ 3 đến 4 năm nữa.
Với đạo luật mới vừa được ban hành, thì "tình trạng con trẻ" (child status) sẽ được ấn định kể từ ngày nộp đơn, hoặc khi cha, mẹ nhập tịch, hay lúc đương sự trở lại tình trạng độc thân, chứ không phải lúc sở di trú phỏng vấn hoặc cứu xét hồ sơ, vì thế họ vẫn được ở trong thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate ralative), hay trong diện 2A.
Ngoài ra "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ" cũng còn được áp dụng cho các trường hợp xin tỵ nạn ở Hoa Kỳ, và quan trọng hơn nữa là nó sẽ mang tính cách hồi tố (retroactively), vì thế đối với những đơn xin tỵ nạn hoặc bảo lãnh di dân I-130 đã nộp trước đây, rất nhiều con em đang bị rơi vào hoàn cảnh "aged out" (quá tuổi), nay sẽ có thể được thụ hưởng quyền lợi đặc miễn nhân đạo này.
Sau đây chúng tôi xin phân tích những chi tiết quan trọng của đạo luật HR-1209.
- Con trẻ của những Công Dân Mỹ :
Điều khoản Thứ Hai (Section 2) của đạo luật HR-1209, cho phép những người con của các công dân Mỹ nhập tịch, từ nay sẽ được giữ nguyên "tình trạng con trẻ" (child status) vào lúc mà cha mẹ của họ nộp đơn xin bảo lãnh, hay nói rõ hơn là nếu khi nộp đơn, những người con này dưới 21 tuổi, thì dù đến lúc được cứu xét hay phỏng vấn, đương sự đã bước qua tuổi 21, luật mớiï vẫn cho phép được ở trong thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate relatives), thay vì phải bị chuyển qua diện F#1, như luật lệ trước đây.
Còn đối với những người con độc thân, dưới 21 tuổi của thường trú nhân, thì ngay sau khi người cha, hoặc mẹ bảo trợ, nhập quốc tịch Hoa Kỳ, luật mới cũng sẽ được áp dụng. Có nghĩa là từ "thứ tự ưu tiên #2A", đương sự sẽ được chuyển sang thành phần "liên hệ trực thuộc" (immediate relatives). Và cũng được đối sử tương tự như trường hợp vừa đề cập ở trên, dù đến khi được cứu xét hay phỏng vấn, đương sự đã bước qua tuổi 21. Tuy nhiên điều kiện "tình trạng con trẻ" (child status), phải tính vào thời điểm cha, hoặc mẹ nhập tịch chứ không ở lúc nộp đơn.
Ngoài ra trong trường hợp của những người con đã lập gia đình của công dân Mỹ, thuộc "thứ tự ưu tiên #3", nếu họ ly dị hoặc trở thành người góa bụa trước khi 21 tuổi, thì cũng sẽ được thụ hưởng quyền lợi như hai trường hợp kể trên. Và dĩ nhiên điều kiện "tình trạng con trẻ" (child status), sẽ được tính vào thời điểm mà đương sự chấm dứt hôn nhân một cách hợp pháp (legal termination of the marriage), chứ không ở lúc nộp đơn.
- Con trẻ của những Thường Trú Nhân :
Điều khoản Thứ Ba (Section 3) của "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ" áp dụng
một cách phức tạp hơn đối với con cái của những thường trú nhân, và ngôn ngữ sử dụng trong văn bản của đạo luật cũng không được rõ ràng, cần phải đợi cho đến khi bản dự thảo điều lệ ban hành thì chúng ta mới biết thêm chi tiết. Tuy nhiên, nhận định một cách tổng quát, thì trong trường hợp những người con độc thân, dưới 21 tuổi của một thường trú nhân, thuộc "thứ tự ưu tiên #2A", đương sự bắt buộc sẽ bị chuyển sang "thứ tự ưu tiên #2B" ngay khi vừa qua 21 tuổi. Nhưng điều luật mới cho phép họ được khấu trừ thời gian mà sở di trú đã kéo dài để cứu xét đơn bảo lãnh I-130 . Nói một cách khác, dựa vào lúc tuổi của người con khi chiếu khán dành cho "thứ tự ưu tiên #2A" hiệu lực, dù sau đó họ có qua 21 tuổi thì vẫn có thể không mất tình trạng ưu tiên, tùy theo thời gian sở di trú tiến hành thủ tục xét đơn. Thí dụ như trong trường hợp một tờ đơn bảo lãnh phải kéo dài một năm (12 tháng) , thì mới được sở di trú chấp thuận, hoặc phỏng vấn, thế nhưng nếu đương sự chưa qua 22 tuổi, thì vẫn được xem như thuộc "ưu tiên #2A". Với điều kiện là thủ tục điều chỉnh tình trạng di trú hoặc nhập cảnh phải được thực hiện trong vòng một năm.
- Con trẻ của những Người Tỵ Nạn :
Trường hợp con cái độc thân của những người xin tỵ nạn chính trị ngay trên đất Hoa Kỳ (asylees) hoặc đến từ các quốc gia khác (refugees), thì điều khoản Thứ Tư và Thứ Năm (Section 4 & 5) của đạo luật mới cũng sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi trong việc cho phép những người con dù đã trên 21 tuổi vẫn có thể được tháp tùng cùng với gia đình . Không như trước đây, chỉ có những trẻ em dưới 21 tuổi khi cha mẹ được phỏng vấn thì mới đủ điều kiện tháp tùng (derivative). Đạo luật HR-1209 đã ấn định lại "tình trạng con trẻ" (child status) của họ vào thời điểm cha mẹ nộp đơn xin tỵ nạn.
(Chú thích: Dựa theo tinh thần của "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ", thì có lẽ con cái của những người thuộc thành phần cựu nhân viên sở Mỹ hoặc diện ROVR ở Việt Nam hiện nay, sẽ tận hưởng được rất nhiều quyền lợi, bởi vì đa số các đơn xin tỵ nạn của họ đều đã nộp cách đây cả chục năm về trước).
- Thời gian hiệu lực:
Điều khoản Thứ Tám (Section 8) của "Đạo Luật Bảo Vệ Tình Trạng Con Trẻ" ghi rõ rằng đạo luật này có hiệu lực kể từ ngày 6 tháng 8, 2002 tức là ngày tổng thống Hoa Kỳ phê chuẩn, vì thế mà đương nhiên tất cả các đơn xin bảo lãnh gia đình I-130, hoặc xin nhập cảnh Hoa Kỳ theo diện tỵ nạn, diện nghề nghiệp hay di dân theo chương trình xổ số (diversity) đang hoặc chưa được cứu xét, đều thụ hưởng được quyền lợi của đạo luật nói trên, ngoại trừ các trường hợp đã có quyết định chung cuộc (final determination).
Nếu quý vị độc giả cần thêm chi tiết hoặc văn bản của đạo luật HR-1209, xin liên lạc với chúng tôi ở số (213) 251-3460.
Nam Lộc
LTS. Ông Nguyễn Nam Lộc hiện là giám đốc Văn Phòng Di Trú và Tỵ Nạn, cơ quan Bác Ái Công Giáo, tổng giáo phận Los Angeles. Đồng thời cũng là cố vấn luật di trú được Hội Đồng Kháng Cáo Di Trú, Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ (Board of Immigration Appeals - U.S./D.O.J.) chuẩn thuận, để đại diện thân chủ trước Sở Di Trú cũng như trước Tòa Án Di Trú.
Gửi ý kiến của bạn