(Falls Church, VA) Thường thì một trong những thú vui cuối tuần là tham dự yến tiệc của một vài hội đoàn, nghỉ nấu cơm một bữa, dùng cơm tối nhà hàng cho rảnh, hoặc vào rạp xi-nê xem một cuốn phim vừa ra lò. Cuối tuần vừa qua (06/17/2005), “Batman Begins” được quảng cáo rầm rộ và xông xáo chiếm ngự đa số tất cả các rạp chiếu bóng lớn nhất trong vùng. Thế nhưng, khoảng 500 đồng bào Việt Nam tại vùng Hoa Thịnh Đốn và phụ cận đã không màng “Batman Begins”, lại cùng nhau tụ họp tại rạp chiếu bóng Loehmann Cinema để đón xem buổi ra mắt cuốn phim “Mê Thảo - Thời Vang Bóng” (“Mê Thảo”) của Nữ Đạo Diễn người Pháp gốc Việt, Việt Linh, và được sự giúp đỡ của cơ quan “Agence intergouvernemental de la Francophonie” và bộ “Ministere des Affaires Etrangeres (Fonds Sud Cinema, ADC Sud).
Năm 2003, Mê Thảo đã được giải ưu hạng “Bông Hồng Vàng” tại Liên Hoan Phim Bergamo Film Festival tại Ý Đại Lợi và đã tham dự các liên hoan phim tại Tokyo, Bergamo, Deauville (Pháp), Singapore, Namur (Bỉ), Amiens (Pháp), Fukuoka (Nhật) và Vesoul (Pháp); “Mê Thảo” cũng sẽ tham dự buổi Liên Hoan Phim quốc tế tại Namur, Pháp, vào ngày 26 tháng 9, 2005 sắp tới. Mỉa mai thay, Mê Thảo được trình chiếu tại khắp nơi trên thế giới. Song, chỉ vì một chút đố kị nhỏ nhoi giữa nhà nước Hà Nội và tài tử Đơn Dương, Mê Thảo chỉ được trình chiếu tại một vài rạp trong cả nước như tại trung tâm chiếu phim quốc gia tại Hà nội và cinebox. Và Mê Thảo cũng là cuốn phim cuối cùng mà Đơn Dương được đóng ở Việt Nam.
Nằm trong thời điểm của đầu thế kỷ 20, Việt Nam trong thời Pháp thuộc, Mê Thảo đã diễn đạt được một số hình ảnh lịch sử xác thực của xã hội Việt Nam thời đô hộ cũng như tâm lý và nhân bản của con người Việt Nam trong một chế độ kiềm chế độc tài. Những mê tín, dị đoan, những đam mê, cổ hũ của kẻ lãnh đạo đã gây tai hại cho sự trưởng thành của một xã hội nhỏ để bị đưa đến cái cảnh “phú quí giật lùi”, mà cho đến bây giờ chúng ta thấy Việt Nam vẫn là nạn nhân của những đam mê ấy.
Trong Mê Thảo có 4 nhân vật chính tượng trưng cho 4 khía cạnh của cuộc đời trong xã hội Việt Nam. Nguyễn, một phú hộ trong làng, đẹp trai, sang trọng, đầy lòng cao thượng, vị tha, một con người lãnh đạo lý tưỏng đã đạt tới mức độ cao thường của cuộc sống khi ông tạo dựng Mê Thảo thành một ấp lũy phong phú; dân làng xem ông như một thần tượng siêu thần đã ban cho họ cuộc sống sung túc, an lành. Ở đây, nếu nói đến ý nghĩa của “thiểu dục tri túc” thì chính Nguyễn đã trở thành nạn nhân của dục vọng, đam mê của ông. Sẵn của, muốn làm oai, giống như cuộc tình Đắc Kỷ-Trụ Vương ngày xưa, ông phải tìm bất cứ những báu vật vô giá để dâng tặng người đẹp để rồi chính món quà đó đã cướp đi sự sống của người yêu. Thường có câu “yêu thì khổ mà không yêu thì lỗ”. Dĩ nhiên là con người trần tục, mất đi một cái gì yêu quý nhất trong đời là một khổ hạnh đến phát điên lên. Nhưng cái điên của Nguyễn là một sự hủy hoại nhân loại. Mê Thảo diễn đạt cái điên ngông cuồng của Nguyễn qua sự tôn thờ, sùng bái một hình người bằng rơm trong bộ áo cưới của người yêu. Sùng bái đến mất cả tri giác thực hư, ông khắc tượng hình người yêu để hằng đêm ông tưởng như mình đang có những phút giây ân ái với nàng. Vai trò này có ẩn dụ gì chăng" Có chứ! Có rất nhiều ẩn dụ và chiều sâu vô đáy, nhưng phải tùy cái nhìn của từng khán giả thưởng thức cuốn phim này. Ngẫm nghĩ, dù là tượng rơm, tượng gỗ, hay tượng đắp phủ bằng chất xáp lồng trong gương kính cũng chỉ là vật vô tri, vô giác, vô hồn thì tại sao ta lại phải tôn thờ đến mất cả tâm trí"
Tam, một nghệ sĩ chơi “đàn dây” (đàn đáy và đàn nguyệt) tại một nhà hát ả đào sang trọng, vì lỡ tay sát hại một tên say rượu con nhà thực dân làm bạo động khu nhà hát, nên đã được Nguyễn giúp thoát khỏi vòng truy nã của chính quyền. Nhưng, đó cũng đánh dấu sự mất mát cao quý nhất của đời anh—tình yêu của anh và cô ả đào tên Tơ. Anh cũng là nạn nhân của “yêu thì khổ mà không yêu thì cũng lỗ”. Tuy nhiên, sự biến đổi cuộc đời này cũng đã giúp anh trở thành bạn tri kỷ của Nguyễn. Nhìn cái đau đớn trong sự mất mát của Nguyễn, Tam đau xót khi thấy dân chúng vô tội trong làng bị dày vò, hành hạ dưới cơn ngông cuồng của Nguyễn. Mang ơn Nguyễn đã cứu mình, bằng mọi cách Tam phải mang Nguyễn trở về với thực tại, cho dù anh phải hy sinh sự sống của mình.
Tơ, cô ả đào duyên dáng, tiêu biểu cho mẫu người phụ nữ thời phong kiến. Vâng lời cha mẹ, cô phải ngậm đắng, đè nén tình yêu với Tam, để kết hôn với người khác trả nợ cho bố mẹ. Ơi! khốn khổ! Lại một nhân vật nữa lâm vào cảnh …. “yêu thì khổ mà không yêu thì lỗ”! Vì tình nghĩa phu thê, cho dù chồng chết, cô vẫn mang tâm trạng tội lỗi phụ chồng, nên đã từ chối tình yêu với Tam khi Tam tìm lại được cô. Cô đồng ý giúp Tam cứu tỉnh Nguyễn với điều kiện Tam phải dùng cây đàn nguyệt để trên ban thờ của chồng cô. Một cây đàn huyền bí, nhiều ma lực. Cô đã không khỏi đau xót khi phải mục kích người yêu ngã gục dưới cây đàn dây huyền bí của chồng. Trong giây phút cuối cùng của cuốn phim, khi Tơ và Tam đau đớn trao đổi tâm tư qua ánh mắt, sửa soạn chờ đón tử thần đến rước đi người yêu, người xem cũng cảm như lồng ngực mình khó thở, bị đè nén bởi quá xúc cảm. Giọng ngâm bi ai, não ruột của Tơ trộn với tiếng đàn dồn dập của Tam đã làm thức tỉnh được Nguyễn.
Cô gái câm, quê mùa, chất phát, Cam, là tượng trưng cho sự chịu đựng thiếu thốn, nhưng vẫn không mất đi nhân cách của một con người, vẫn trông mong hoài bão được yêu và được tôn trọng. Cô sẵn sàng hy sinh để cứu chủ và để cứu vãn Mê Thảo thoát khỏi đám mây đen che phủ cả vòm trời để rồi cô cũng là người cuối cùng nhìn thấy Mê Thảo xụp đổ dưới tâm hồn lũng đoạn của chủ và bàn tay ngoại xâm.
Ngoài cốt truyện điễn đạt sâu xa ý nghĩa của tình yêu và tình bạn tri kỷ, tuy hơi lý tưởng một tí, Mê Thảo đem lại cho đồng bào hải ngoại nhiều kỷ niệm vương vấn từ thời xa xưa. Những phong tục, tập quán, những tinh hoa của nghệ thuật và văn hóa Việt Nam đều được diễn đạt xuất thần tạo cho người xem cảm giác gần gũi với cái đẹp đầy đặn từ tiếng nhạc, lời ca qua điệu hát “ca trù” diễn tấu tuyệt vời và màn hát bội song đôi hài hước, sống động, đến truyền thống dân tộc qua lễ tục thả đèn trời, rồi đến những phong cảnh thiên nhiên hữu tình của quê hương dấu yêu gợi cho chúng ta một phút nhớ nhà. Tất cả khơi lên một nét quyến rũ thần bí, luân chuyển trong một thế giới xa lạ khiến cho người xem có cảm giác như mình cũng đang bị loài dược thảo kia đưa vào mê hồn trận.
Ngoài giá trị tuyệt tác qua truyện phim, Mê Thảo còn là sự phối hợp hữu tình giữa hình ảnh và âm thanh. Tất cả như một nhân duyên đẹp tạo cho cuốn phim nét hoàn hảo từ bố cục đến không gian và thời gian. Hình ảnh cảnh đồng quê Việt Nam đầu thế kỷ 20 với nét chuyển dạng từ cổ đến kim; từ nét hiền hòa, mộc mạc, đơn giản cho đến sức sống dồn dập, xa hoa; những người dân chất phát, chân lấm tay bùn phản ảnh với nét kiêu sa, khách sáo của giới thượng lưu để nhấn mạnh sự chênh lệch giai cấp; sự tương phản giữa chính quyền thuộc địa và “phép vua thua lệ làng”, giữa ý thức “muôn sự tại nhân, thành sự tại thiên”; sự mâu thuẫn trong cái nhìn của người dân về kẻ đô hộ và người lãnh đạo—ai chính là kẻ xâm phạm, dày vò quyền lợi công dân của mình đây" Tất cả nhồi nắn thành một chất liệu hoàn toàn mới lạ, kích thích, quyến rũ với mọi thành phần khán giả.
Có lẽ, đối với lứa tuổi trẻ hơn không quen thuộc với lịch sử và văn hóa Việt Nam và những khán giả người Mỹ, những phong tục, truyền thống và tâm lý của từng nhân vật trong phim sẽ thật khó hiểu. Những ai quen thuộc với những cuốn phim sống động, âm thanh dồn dập, kỹ thuật tối tân của phim Mỹ cũng sẽ cảm thấy nhịp độ của Mê Thảo rất chậm, ngồi hoài chưa hết phim. Tuy nhiên, đó là điểm mất mát của những người không biết quý đến giá trị giải trí thần xác. Sau một ngày làm việc mệt mỏi tâm thần và trí óc; ra về lại phải ngồi hàng giờ trên xa lộ kẹt xe; cả một tuần lễ phải vội vã, hấp tấp, sung sức cho xong việc; chiều thứ Sáu ngồi xuống thoải mái để giải trí trong sự thư thái của nhà “Thiền” thì đó mới là điều chúng ta cần thực hiện cho chính bản thân, nếu không dần dần cũng trở thành chàng Nguyễn mất! Vả lại, không gì thú hơn là thú ăn hàng sau khi mãn hát. Một tô cháo lòng, một tô mì vịt, một tô xủi cảo, một tô phở tái thơm nồng, hay đơn giản hơn…McDonald’s vừa đủ để chúng ta nhóm họp bàn về cuốn phim vừa xem.
Nếu Mê Thảo đã thuyết phục được hội đồng giám khảo tại Bergamo để đoạt được giải thưởng ưu hạng, hy vọng Mê Thảo cũng sẽ lay chuyển cảm nghĩ và nghi vấn của những khán giả khó tính. Thực vậy, cả 4 nhân vật chính trong cuốn phim này diễn xuất rất đúng mức và thích hợp với vai trò của họ. Nếu đã từng xem Đơn Dương qua “Three Seasons”, “the Green Dragon” và “We Were Soldiers”, người xem sẽ nhận thấy kinh nghiệm và tài diễn xuất của anh vượt trội trong Mê Thảo. Anh đã cố gắng luyện tập để có khả năng đệm đàn đúng khớp như tay nhà nghề chính tông. Có điều, khi nghe dòng nhạc trổi dồn dập ở phút cuối, tôi nhận thấy giọng điệu của nốt nhạc “ca trù” không khác gì tiếng nhạc “country music” của Mỹ bây giờ.
Sự thành công của một cuốn phim cũng phải dựa vào tài nghệ của người Đạo Diễn. Đây là cuốn phim thứ bẩy của Nữ Đạo Diễn Việt Linh. Đặc biệt ở đây, bà là người gốc miền Nam và đã bỏ một khoảng thời gian khá lâu để trau dồi những đặc điểm và ngôn ngữ trong cuốn truyện “Chùa Đàn” của cố văn sĩ Nguyễn Tân. Sau đó, bà tiếp tục sưu tầm và khảo cứu thêm những phong tục tập quán, phương cách trang phục và những vật dụng, đạo cụ thời ấy lồng trong những chi tiết vặt vãnh để họa lên một khung cảnh cuộc sống hằng ngày xác thực và thích hợp với thời điểm xa xưa cho cuốn phim này.
Mê Thảo sẽ được trình chiếu thêm 2 xuất nữa tại cùng rạp Loehmann Cinema vào 2 ngày Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2005 lúc 2 giờ trưa, và mùng 10 tháng 7, 2005 vào lúc 5 giờ chiều. Vé có bán tại rạp với giá $10.00/vé.
(Lê Thùy Lan, VATV)
Năm 2003, Mê Thảo đã được giải ưu hạng “Bông Hồng Vàng” tại Liên Hoan Phim Bergamo Film Festival tại Ý Đại Lợi và đã tham dự các liên hoan phim tại Tokyo, Bergamo, Deauville (Pháp), Singapore, Namur (Bỉ), Amiens (Pháp), Fukuoka (Nhật) và Vesoul (Pháp); “Mê Thảo” cũng sẽ tham dự buổi Liên Hoan Phim quốc tế tại Namur, Pháp, vào ngày 26 tháng 9, 2005 sắp tới. Mỉa mai thay, Mê Thảo được trình chiếu tại khắp nơi trên thế giới. Song, chỉ vì một chút đố kị nhỏ nhoi giữa nhà nước Hà Nội và tài tử Đơn Dương, Mê Thảo chỉ được trình chiếu tại một vài rạp trong cả nước như tại trung tâm chiếu phim quốc gia tại Hà nội và cinebox. Và Mê Thảo cũng là cuốn phim cuối cùng mà Đơn Dương được đóng ở Việt Nam.
Nằm trong thời điểm của đầu thế kỷ 20, Việt Nam trong thời Pháp thuộc, Mê Thảo đã diễn đạt được một số hình ảnh lịch sử xác thực của xã hội Việt Nam thời đô hộ cũng như tâm lý và nhân bản của con người Việt Nam trong một chế độ kiềm chế độc tài. Những mê tín, dị đoan, những đam mê, cổ hũ của kẻ lãnh đạo đã gây tai hại cho sự trưởng thành của một xã hội nhỏ để bị đưa đến cái cảnh “phú quí giật lùi”, mà cho đến bây giờ chúng ta thấy Việt Nam vẫn là nạn nhân của những đam mê ấy.
Trong Mê Thảo có 4 nhân vật chính tượng trưng cho 4 khía cạnh của cuộc đời trong xã hội Việt Nam. Nguyễn, một phú hộ trong làng, đẹp trai, sang trọng, đầy lòng cao thượng, vị tha, một con người lãnh đạo lý tưỏng đã đạt tới mức độ cao thường của cuộc sống khi ông tạo dựng Mê Thảo thành một ấp lũy phong phú; dân làng xem ông như một thần tượng siêu thần đã ban cho họ cuộc sống sung túc, an lành. Ở đây, nếu nói đến ý nghĩa của “thiểu dục tri túc” thì chính Nguyễn đã trở thành nạn nhân của dục vọng, đam mê của ông. Sẵn của, muốn làm oai, giống như cuộc tình Đắc Kỷ-Trụ Vương ngày xưa, ông phải tìm bất cứ những báu vật vô giá để dâng tặng người đẹp để rồi chính món quà đó đã cướp đi sự sống của người yêu. Thường có câu “yêu thì khổ mà không yêu thì lỗ”. Dĩ nhiên là con người trần tục, mất đi một cái gì yêu quý nhất trong đời là một khổ hạnh đến phát điên lên. Nhưng cái điên của Nguyễn là một sự hủy hoại nhân loại. Mê Thảo diễn đạt cái điên ngông cuồng của Nguyễn qua sự tôn thờ, sùng bái một hình người bằng rơm trong bộ áo cưới của người yêu. Sùng bái đến mất cả tri giác thực hư, ông khắc tượng hình người yêu để hằng đêm ông tưởng như mình đang có những phút giây ân ái với nàng. Vai trò này có ẩn dụ gì chăng" Có chứ! Có rất nhiều ẩn dụ và chiều sâu vô đáy, nhưng phải tùy cái nhìn của từng khán giả thưởng thức cuốn phim này. Ngẫm nghĩ, dù là tượng rơm, tượng gỗ, hay tượng đắp phủ bằng chất xáp lồng trong gương kính cũng chỉ là vật vô tri, vô giác, vô hồn thì tại sao ta lại phải tôn thờ đến mất cả tâm trí"
Tam, một nghệ sĩ chơi “đàn dây” (đàn đáy và đàn nguyệt) tại một nhà hát ả đào sang trọng, vì lỡ tay sát hại một tên say rượu con nhà thực dân làm bạo động khu nhà hát, nên đã được Nguyễn giúp thoát khỏi vòng truy nã của chính quyền. Nhưng, đó cũng đánh dấu sự mất mát cao quý nhất của đời anh—tình yêu của anh và cô ả đào tên Tơ. Anh cũng là nạn nhân của “yêu thì khổ mà không yêu thì cũng lỗ”. Tuy nhiên, sự biến đổi cuộc đời này cũng đã giúp anh trở thành bạn tri kỷ của Nguyễn. Nhìn cái đau đớn trong sự mất mát của Nguyễn, Tam đau xót khi thấy dân chúng vô tội trong làng bị dày vò, hành hạ dưới cơn ngông cuồng của Nguyễn. Mang ơn Nguyễn đã cứu mình, bằng mọi cách Tam phải mang Nguyễn trở về với thực tại, cho dù anh phải hy sinh sự sống của mình.
Tơ, cô ả đào duyên dáng, tiêu biểu cho mẫu người phụ nữ thời phong kiến. Vâng lời cha mẹ, cô phải ngậm đắng, đè nén tình yêu với Tam, để kết hôn với người khác trả nợ cho bố mẹ. Ơi! khốn khổ! Lại một nhân vật nữa lâm vào cảnh …. “yêu thì khổ mà không yêu thì lỗ”! Vì tình nghĩa phu thê, cho dù chồng chết, cô vẫn mang tâm trạng tội lỗi phụ chồng, nên đã từ chối tình yêu với Tam khi Tam tìm lại được cô. Cô đồng ý giúp Tam cứu tỉnh Nguyễn với điều kiện Tam phải dùng cây đàn nguyệt để trên ban thờ của chồng cô. Một cây đàn huyền bí, nhiều ma lực. Cô đã không khỏi đau xót khi phải mục kích người yêu ngã gục dưới cây đàn dây huyền bí của chồng. Trong giây phút cuối cùng của cuốn phim, khi Tơ và Tam đau đớn trao đổi tâm tư qua ánh mắt, sửa soạn chờ đón tử thần đến rước đi người yêu, người xem cũng cảm như lồng ngực mình khó thở, bị đè nén bởi quá xúc cảm. Giọng ngâm bi ai, não ruột của Tơ trộn với tiếng đàn dồn dập của Tam đã làm thức tỉnh được Nguyễn.
Cô gái câm, quê mùa, chất phát, Cam, là tượng trưng cho sự chịu đựng thiếu thốn, nhưng vẫn không mất đi nhân cách của một con người, vẫn trông mong hoài bão được yêu và được tôn trọng. Cô sẵn sàng hy sinh để cứu chủ và để cứu vãn Mê Thảo thoát khỏi đám mây đen che phủ cả vòm trời để rồi cô cũng là người cuối cùng nhìn thấy Mê Thảo xụp đổ dưới tâm hồn lũng đoạn của chủ và bàn tay ngoại xâm.
Ngoài cốt truyện điễn đạt sâu xa ý nghĩa của tình yêu và tình bạn tri kỷ, tuy hơi lý tưởng một tí, Mê Thảo đem lại cho đồng bào hải ngoại nhiều kỷ niệm vương vấn từ thời xa xưa. Những phong tục, tập quán, những tinh hoa của nghệ thuật và văn hóa Việt Nam đều được diễn đạt xuất thần tạo cho người xem cảm giác gần gũi với cái đẹp đầy đặn từ tiếng nhạc, lời ca qua điệu hát “ca trù” diễn tấu tuyệt vời và màn hát bội song đôi hài hước, sống động, đến truyền thống dân tộc qua lễ tục thả đèn trời, rồi đến những phong cảnh thiên nhiên hữu tình của quê hương dấu yêu gợi cho chúng ta một phút nhớ nhà. Tất cả khơi lên một nét quyến rũ thần bí, luân chuyển trong một thế giới xa lạ khiến cho người xem có cảm giác như mình cũng đang bị loài dược thảo kia đưa vào mê hồn trận.
Ngoài giá trị tuyệt tác qua truyện phim, Mê Thảo còn là sự phối hợp hữu tình giữa hình ảnh và âm thanh. Tất cả như một nhân duyên đẹp tạo cho cuốn phim nét hoàn hảo từ bố cục đến không gian và thời gian. Hình ảnh cảnh đồng quê Việt Nam đầu thế kỷ 20 với nét chuyển dạng từ cổ đến kim; từ nét hiền hòa, mộc mạc, đơn giản cho đến sức sống dồn dập, xa hoa; những người dân chất phát, chân lấm tay bùn phản ảnh với nét kiêu sa, khách sáo của giới thượng lưu để nhấn mạnh sự chênh lệch giai cấp; sự tương phản giữa chính quyền thuộc địa và “phép vua thua lệ làng”, giữa ý thức “muôn sự tại nhân, thành sự tại thiên”; sự mâu thuẫn trong cái nhìn của người dân về kẻ đô hộ và người lãnh đạo—ai chính là kẻ xâm phạm, dày vò quyền lợi công dân của mình đây" Tất cả nhồi nắn thành một chất liệu hoàn toàn mới lạ, kích thích, quyến rũ với mọi thành phần khán giả.
Có lẽ, đối với lứa tuổi trẻ hơn không quen thuộc với lịch sử và văn hóa Việt Nam và những khán giả người Mỹ, những phong tục, truyền thống và tâm lý của từng nhân vật trong phim sẽ thật khó hiểu. Những ai quen thuộc với những cuốn phim sống động, âm thanh dồn dập, kỹ thuật tối tân của phim Mỹ cũng sẽ cảm thấy nhịp độ của Mê Thảo rất chậm, ngồi hoài chưa hết phim. Tuy nhiên, đó là điểm mất mát của những người không biết quý đến giá trị giải trí thần xác. Sau một ngày làm việc mệt mỏi tâm thần và trí óc; ra về lại phải ngồi hàng giờ trên xa lộ kẹt xe; cả một tuần lễ phải vội vã, hấp tấp, sung sức cho xong việc; chiều thứ Sáu ngồi xuống thoải mái để giải trí trong sự thư thái của nhà “Thiền” thì đó mới là điều chúng ta cần thực hiện cho chính bản thân, nếu không dần dần cũng trở thành chàng Nguyễn mất! Vả lại, không gì thú hơn là thú ăn hàng sau khi mãn hát. Một tô cháo lòng, một tô mì vịt, một tô xủi cảo, một tô phở tái thơm nồng, hay đơn giản hơn…McDonald’s vừa đủ để chúng ta nhóm họp bàn về cuốn phim vừa xem.
Nếu Mê Thảo đã thuyết phục được hội đồng giám khảo tại Bergamo để đoạt được giải thưởng ưu hạng, hy vọng Mê Thảo cũng sẽ lay chuyển cảm nghĩ và nghi vấn của những khán giả khó tính. Thực vậy, cả 4 nhân vật chính trong cuốn phim này diễn xuất rất đúng mức và thích hợp với vai trò của họ. Nếu đã từng xem Đơn Dương qua “Three Seasons”, “the Green Dragon” và “We Were Soldiers”, người xem sẽ nhận thấy kinh nghiệm và tài diễn xuất của anh vượt trội trong Mê Thảo. Anh đã cố gắng luyện tập để có khả năng đệm đàn đúng khớp như tay nhà nghề chính tông. Có điều, khi nghe dòng nhạc trổi dồn dập ở phút cuối, tôi nhận thấy giọng điệu của nốt nhạc “ca trù” không khác gì tiếng nhạc “country music” của Mỹ bây giờ.
Sự thành công của một cuốn phim cũng phải dựa vào tài nghệ của người Đạo Diễn. Đây là cuốn phim thứ bẩy của Nữ Đạo Diễn Việt Linh. Đặc biệt ở đây, bà là người gốc miền Nam và đã bỏ một khoảng thời gian khá lâu để trau dồi những đặc điểm và ngôn ngữ trong cuốn truyện “Chùa Đàn” của cố văn sĩ Nguyễn Tân. Sau đó, bà tiếp tục sưu tầm và khảo cứu thêm những phong tục tập quán, phương cách trang phục và những vật dụng, đạo cụ thời ấy lồng trong những chi tiết vặt vãnh để họa lên một khung cảnh cuộc sống hằng ngày xác thực và thích hợp với thời điểm xa xưa cho cuốn phim này.
Mê Thảo sẽ được trình chiếu thêm 2 xuất nữa tại cùng rạp Loehmann Cinema vào 2 ngày Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2005 lúc 2 giờ trưa, và mùng 10 tháng 7, 2005 vào lúc 5 giờ chiều. Vé có bán tại rạp với giá $10.00/vé.
(Lê Thùy Lan, VATV)
Gửi ý kiến của bạn