Trước khi vào lễ, đồng hương Phật tử và Gia Đình Phật Tử Phổ Đà đã sắp thành hai hàng dọc để cung thỉnh Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Tôn Đức Tăng Ni quang lâm chánh điện để cử hành lễ húy nhật lần thứ 4 của Hòa Thượng khai sơn Chùa Phổ Đà. Buổi lễ do HT. Thích Phước Thuận làm chủ lễ.
Sau khi nghi thức hiệp kỵ chấm dứt, Ban tổ chức Cung thỉnh Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Tôn Đức Tăng Ni quan lâm trai đường để thọ trai, trong lúc nầy đồng hương Phật tử vân tập về hội trường để dùng bữa cơm chay do Đạo Tràng Phổ Đà khoản đãi.
Trong dịp nầy, Hòa Thượng Thích Nguyên Hạnh, viện chủ Trung Tâm Phật Giáo Chùa Việt Nam, Houston, Texas, cho biết: “Chúng tôi đến dự lễ húy nhật lần Thứ Tư của HT. Khai sơn Chùa Phổ Đà là để tưởng niệm hình bóng và công đức của HT. khai sơn ngôi chùa Phổ Đà này. Trước khi viên tịch, ngài có giao lại ngôi chùa này cho Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và đã gởi gắm cho chúng tôi chăm sóc ngôi chùa này ở trong thời gian đầu. Sau hơn ba năm trôi qua vì chúng tôi ở xa không thể nào trực tiếp chăm sóc ngôi chùa này, cho nên chúng tôi đã chuyển giao lại cho chư vị tôn túc trong Tổng Hội Phật Giáo…”
Theo tài liệu của Ban tổ chức cho biết: Cố Hòa Thượng Thích Hạnh Đạo sinh năm 1932 tại xã Bình Phục, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, viên tịch năm 2011, thế danh: Nguyễn Đình Mân, pháp danh: Thị Uẩn, pháp tự: Hạnh Đạo, pháp hiệu: Thuần Phong, đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh.
Hòa thượng sinh ra trong một gia đình trung nông, nhưng đời đời thâm tín Phật pháp, thân phụ là cụ ông Nguyễn Đình Khâm và cụ bà Trần Thị Sa.
Năm 1964, khi ngành Tuyên Úy Phật Giáo ra đời, ngài tham dự và tốt nghiệp Khóa I Sĩ Quan Tuyên Úy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt, sau khi tốt nghiệp được bổ nhiệm về Vùng I giữ chức vụ Phụ Tá Tuyên Úy Quân Khu.
Sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành lập Nha Tuyên Úy Phật Giáo vào đầu năm 1964, từ năm 1964 đến năm 1967, ngài đảm nhận chức vụ tổng thư ký Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Quảng Nam-Đà Nẵng.
Từ năm 1966 đến năm 1968, ngài được công cử làm trụ trì chùa Báo Ân kiêm Tuyên Úy Trưởng tại Tổng Y Viện Cộng Hòa.
Từ năm 1968 đến năm 1970, ngài được thăng cấp bậc Trung Tá và đảm nhận chức vụ chánh sở Tuyên Úy Phật Giáo Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, văn phòng đặt tại tỉnh Cần Thơ.
Năm 1970, ngài được công cử đảm nhận chức vụ giám đốc Cơ Quan Viện Trợ CRS, là cơ quan viện trợ nhân đạo quốc tế của Hoa Kỳ.
Từ năm 1970 đến năm 1975, ngài về trụ trì chùa Từ Tâm trong Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Đà Nẵng. Trong thời gian này, ngài cũng dạy học tại Phật Học Viện Phổ Đà, Giáo sư Toán Trường Trung Học Bồ Đề, Đà Nẵng, và đảm nhận chức vụ phó đại diện Nội Vụ trong Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Thị Xã Đà Nẵng.
Sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam, cùng chung số phận với hàng trăm ngàn quân cán chính VNCH, ngài bị Cộng Sản bắt bỏ tù từ năm 1975 cho đến năm 1985 mới được thả ra.
Sau khi ra khỏi tù Cộng Sản, ngài về cư trú tại Sài Gòn và dạy học cho Tăng Ni tại tại Phật Học Viện Giác Ngộ.
Đến năm 1993, ngài được sang định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-19, đến Hoa Kỳ Ngài đã trú xứ tại Chùa Việt Nam ở thành phố Los Angeles, do cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân khai sơn, và cố Hòa Thượng Thích Mãn Giác kế vị trú trì.
Những năm đầu tại đất khách, ngài được cung thỉnh làm giảng sư cho Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, do Hòa Thượng Thích Mãn Giác làm Hội Chủ, và thay mặt tổng hội đi hoằng pháp những nơi Phật tử yêu cầu.
Đến năm 1996, để đáp ứng nhu cầu hoằng pháp, coó nơi tu học cho tăng tín đồ và duy trì nền văn hóa Phật Giáo Việt Nam đối với cộng đồng người Việt tị nạn ngày càng gia tăng dân số tại Orange County, Ngài về thành phố Santa Ana thành lập ngôi chùa Phổ Đà và làm viện chủ cho đến ngày viên tịch.
Ngài đã an nhiên xả báo thân, thâu thần thị tịch vào lúc 12 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2011, tài chùa Phổ Đà, thế thọ 80 năm, hạ lạp 60 năm, nhục thân trà tỳ và tháp thờ tại chùa Phổ Đà.
Gửi ý kiến của bạn