(Ghi chú của VB: Bài này trúng giải nhất bậc đại học, thi viết về mẹ, do Đoàn Thanh Niên Việt Mỹ tố chức năm 2013. Bài này cũng ghi lại một hình ảnh xúc động, kể về cha em khi đang ở trại tù cải tạo, khi được bà nội thăm, đã quỳ lạy xin bà nội tha tội vì đã không gìn giữ được miền đất giang san tự do... Tất cả 95 bài dự thi lưu ở đây: http://www.vayc.org.)
Em ở với Bố Mẹ em vừa được hai mươi mốt năm, có nghĩa là em được 21 tuổi. Hình ảnh những năm thơ ấu em không nhớ rõ ngoài một it kỷ niệm gia đình sâu đậm, nhưng em hiểu rõ Bố Mẹ rất thương em, nhất là Mẹ. Bà lo cho em không thiếu một món gì, từ ăn uống bổ dưỡng cho đến tinh thần. Bà dạy em thuộc lòng những bài ca dao bất hủ như: “Con cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao, ông ơi ông vớt tôi nao, tôi có lòng nào ông hãy xáo măng, có xáo thì xáo nước trong, đừng xáo nước đục đau lòng cò con.” Chính nhờ ý nghĩa sâu sắc của hai chữ “trong” và “đục” mà em hiểu được niềm hoài vọng của Mẹ, muốn cho em lớn lên thành người, một con người “nhân bản”, dù có gần mực cũng không đen! (corrupted). Nhưng sau này Mẹ nói cho em biết những câu ca dao hay những bài thơ tác giả vô danh có tính cách răn đời (giáo dục) mà Mẹ biết được và dạy cho em là nhờ Bà Nội, Mẹ của Bố em!
Em không có nhiều kỷ niệm với Bà Nội khi em còn bé. Em xa Bà Nội khi vừa được 2 tuổi, theo Bố Mẹ đi tỵ nạn sang Hoa Kỳ, vì Bố em là sĩ quan miền Nam, ở tù Cộng Sản 9 năm. Em còn nhớ rõ nhất là mỗi khi em bị những cousins lớn hơn em nựng đau quá hay chọc ghẹo, em la lên thì Bà Nội cầm roi chạy ra liền hỏi: “Đứa nào chọc em?” Từ đó em biết khi em bị ăn hiếp (bullied), là có Bà Nội bênh em ngay. Sang Mỹ em sống xa Bà Nội cách một biển Thái Bình Dương, mãi đến năm em 16 tuổi, Bố mới bảo lãnh Bà Nội sang đoàn tụ. Chính nhờ 5 năm này, nhìn thấy Bà Nội đối với Bố em mới hiểu được câu mà Bố thường nói với chúng em là người đàn bà yêu mình nhất trong đời là mẹ! Với Bố Mẹ, em may mắn chưa có kinh nghiệm đau thương của tử biệt sinh ly, nhưng nhờ có Bà Nội, Mẹ của Bố em, mà em mới hiểu được thế nào là sự hy sinh vô bến bờ của người mẹ.
Từ khi có Bà Nội, Bố thường bảo em: “Con phải thương bà Nội nhiều hơn nữa, Bà Nội khổ với Bố không kể xiết!” Bố em nói: Hồi nhỏ năm nào Bố cũng bị một lần cảm thương hàn liệt giường cả tháng. Ăn gì cũng nôn ra hết, sốt nằm li bì, phải uống nước gạo rang mới cầm lại được, rồi uống thuốc Bắc cả tháng trời. Bà Nội phải sắc thuốc, canh lửa. Nửa đêm tới cử uống thuốc, Bà Nội dậy hâm thuốc cho nóng (thời đó chưa có microwave hay bếp gas như bây giờ) rồi dỗ cho Bố uống kẽo không lại nôn ra hết, vì thuốc Bắc rất khó uống, nhất là với một đứa trẻ. Khi ấy Bố đang học lớp nhất tức là lớp năm bây giờ). Cho tới khi Bố 15 tuổi mới không bị loại cảm thương hàn đó nữa”.
Năm 1968, tổng động viên, Bố em vào quân trường Thủ Đức. Từ đó Bố vui đời binh nghiệp. Phải xa nhà, phải theo hành quân, những ngày phép tuy ngắn ngũi nhưng cũng đủ làm Bà Nội yên tâm là lời cầu nguyện của Bà đã được Cao Xanh nghe thấy. Khi Cộng Sản sắp vào Sàigòn, 2 bà chị làm ở DAO trong phi truờng TSN bảo cả nhà được di tản bằng Airlift, nhưng khi đó Bố đang bôn tẩu trên đường từ Ban Mê Thuột về Saigòn, nên Bà Nội bảo phải chờ, thế là cả nhà bị kẹt lại chỉ trừ Ông Nội, đã đi trước một tuần. Khi ra phi trường Ông Nội còn nhắn về bảo cả nhà phải đi, vì Ông Nội có cảm tưởng đây là tử biệt, sẽ không còn bao giờ gặp lại nữa! Nhưng Bà Nội lòng không bỏ con, thà phải bị đọa đày! Thế là Bố về đến nhà đúng sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bà Nội là người vui nhất khi thấy Bố lành lặn không sứt mẻ, dù trãi qua bao nhiêu ngày gai góc đói khát vượt rừng vượt biển để về với mẹ cha. Cả miền Nam trở thành một nhà tù khổng lồ, và Bố đi khắp các trại tù Cộng Sản, từ Nam ra Bắc. Sau 2 năm Bà Nội được lên thăm con tại Long Giao (trước khi Bố bị đưa ra Bắc). Bố quỳ xuống lạy Bà Nội xin tha tội bất hiếu, đã không giữ được giang san. Bà Nội sững người bất động khi nhìn thấy Bố quỳ, chỉ có 2 hàng nước mắt tuông xuống đôi gò má già nua. Khi Bố trở vào trại, ngoái nhìn lại vẫn thấy Bà Nội đứng nhìn theo cho tới khi khuất bóng. Kể lại điều này, Bố nói: “khi đó Bố mới hiểu câu: Nhi hành hướng tiền lộ, mẫu ý tại tha hương (đứa con lên đường ra tới ngõ, lòng mẹ đã ở chốn quê người). Rồi Bố nhắc nhở: “Các con còn sung sướng, còn được ở với Bố Mẹ, đừng vội mong đi, hãy tận hưởng những giờ phút đó, vì sau này các con có đem cả cuộc đời để đổi lại cũng không được, vì nhũng ngày tháng đó với tình mẹ cha là VÔ GIÁ!”
Sau đó Bố ra Bắc. Trước khi bọn Tầu đánh Việt Nam Cộng Sản năm 1979, Bố được chuyển từ Lào Cai (biên giới giáp Tầu) về Vĩnh Phú. Khi Cộng Sản cho thăm nuôi, Bà Nội và Bác Ba ra thăm Bố, sau khi bán sạch những gì còn có thể bán được để làm lộ phí. Khi qua suối, suýt nữa Bà Nội bị nước cuốn đi vì đêm qua mưa rất lớn. Một con trâu không dủ sức kéo chiếc xe trâu trong dòng suối nước tuông như thác, may mà có nhiều người phụ đẩy (nước tới thắt lưng). Cuộc gặp gở tưởng như chiêm bao, giữa dương gian và địa ngục. Bà Nội già và gầy rất nhiều. Điều Bà nhắn nhủ với bố là hãy giữ vững tinh thần: “Mẹ thà có con chết trong tù Cộng Sản, còn hơn là đạp lên anh em mà về. Mẹ hãnh diện vì con không bị sự đói khổ làm rỉ sét phẩm cách của người trai nước Nam.” Ôi rõ ràng lòng mẹ như tấm gương trong cho con soi! Chẳng những Bà Nội nuôi Bố ăn học cho thành danh, nhưng Bà còn muốn Bố cho Bà niềm hãnh diện có một đứa con nên người, đứng giữa đất trời không hỗ thẹn với non sông.
Khi Bà Nội bị ngã vì phải dậy đi tiểu suốt đêm, Bố đưa Bà Nội vào bệnh viện, mới biết Bà bị bí tiểu nên không ngủ được mà không dám kêu, sợ con mất ngủ! Bà bị gẫy xương vai và phải mang bọc nước tiểu bên người. Do vậy Bố đành gửi Bà Nội vào viện dưỡng lão vì họ có sẵn y tá suốt ngày đêm và nhân viên lo vệ sinh và ăn uống. Mỗi ngày Bố vào với Bà Nội một lần để dỗ Bà Nội ăn ít nhất một bữa cơm trọn vẹn. Mỗi khi Bố vào, Bà Nội hỏi thăm từng đứa cháu không sót một ai. Mỗi cuối tuần chúng em đều đi với Bố vào thăm Bà. Nhìn thấy Bà Nội mỗi lần gặp Bố đều hôn Bố như một đứa con nhỏ, chúng em rất cảm động. Bố đã ngoài 60 mà Bà Nội vẫn xem Bố như đứa con còn bé yêu quí của mình ngày nào. Khi chúng em hỏi về sự âu yếm này, Bố nói trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân có câu: “Mẫu niên nhất bách tuế, trường ưu bát thập nhi”, nghĩa là mẹ dù trăm tuổi. vẫn lo cho người con đã 80! Một hôm Bố từ trường Cal Poly Pomona ra, liền chạy thẳng tới viện dưỡng lão (Bố đi học để làm gương cho con cái), đút cho Bà Nội ăn bữa cơm chiều. Ăn xong, Bà nói: “ Mẹ thấy con cực quá, vừa đi học, vừa lo cho mấy đứa nhỏ, rồi còn lo cho mẹ nữa. Thôi để mẹ đi cho con đỡ cực nghe”. Đương nhiên Bố tưởng Bà Nội nói đùa, vì Bà cũng rất thích đùa! Tuy tuổi Bà đã 90, nhưng không có bệnh mãn tính. Không ngờ đó là ngày cuối! Trưa hôm sau viện dưỡng lão gọi điện thoại cho Bố nói Bà ngủ không chịu dậy, chúng tôi đã đưa Bà đến UCI!
Sau đám tang Bà Nội, Bố nói: “Bố vẫn thiếu sót rất nhiều trong nhũng ngày phụng dưỡng Bà Nội. Dù cha mẹ mình khi già có khó chịu, có kỳ cục có chướng thế nào, mình cũng phải thương quí bậc sinh thành, nên Bố nói thật, dù cho có đi hết cuộc đời, chúng ta cũng không bao giờ đền đáp nổi ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha! Đối với bố, bố vừa mất đi một kỳ quan mà trong đời ai cũng có, nhung khi mất rồi chúng ta mới thấy quí, mới thấy thiếu ngọn lửa nồng của tình mẹ.”
Mắt em bỗng cay vì bài học vô giá mà Bố vừa chỉ ra cho em. Em tự hứa với mình, sẽ cố gắng không để mất một giờ phút hạnh phúc nào khi còn được ở với Mẹ Cha! Và bây giờ như mắt được mở ra, em nhìn thấy Mẹ là một kỳ quan, và ánh hào quang của tình Mẹ sẽ không bao giờ tắt trong tim em!
Westminster, 4/30/2013
Phan Minh Trị
UCLA
Email: phankphan@aol.com
Em ở với Bố Mẹ em vừa được hai mươi mốt năm, có nghĩa là em được 21 tuổi. Hình ảnh những năm thơ ấu em không nhớ rõ ngoài một it kỷ niệm gia đình sâu đậm, nhưng em hiểu rõ Bố Mẹ rất thương em, nhất là Mẹ. Bà lo cho em không thiếu một món gì, từ ăn uống bổ dưỡng cho đến tinh thần. Bà dạy em thuộc lòng những bài ca dao bất hủ như: “Con cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao, ông ơi ông vớt tôi nao, tôi có lòng nào ông hãy xáo măng, có xáo thì xáo nước trong, đừng xáo nước đục đau lòng cò con.” Chính nhờ ý nghĩa sâu sắc của hai chữ “trong” và “đục” mà em hiểu được niềm hoài vọng của Mẹ, muốn cho em lớn lên thành người, một con người “nhân bản”, dù có gần mực cũng không đen! (corrupted). Nhưng sau này Mẹ nói cho em biết những câu ca dao hay những bài thơ tác giả vô danh có tính cách răn đời (giáo dục) mà Mẹ biết được và dạy cho em là nhờ Bà Nội, Mẹ của Bố em!
Em không có nhiều kỷ niệm với Bà Nội khi em còn bé. Em xa Bà Nội khi vừa được 2 tuổi, theo Bố Mẹ đi tỵ nạn sang Hoa Kỳ, vì Bố em là sĩ quan miền Nam, ở tù Cộng Sản 9 năm. Em còn nhớ rõ nhất là mỗi khi em bị những cousins lớn hơn em nựng đau quá hay chọc ghẹo, em la lên thì Bà Nội cầm roi chạy ra liền hỏi: “Đứa nào chọc em?” Từ đó em biết khi em bị ăn hiếp (bullied), là có Bà Nội bênh em ngay. Sang Mỹ em sống xa Bà Nội cách một biển Thái Bình Dương, mãi đến năm em 16 tuổi, Bố mới bảo lãnh Bà Nội sang đoàn tụ. Chính nhờ 5 năm này, nhìn thấy Bà Nội đối với Bố em mới hiểu được câu mà Bố thường nói với chúng em là người đàn bà yêu mình nhất trong đời là mẹ! Với Bố Mẹ, em may mắn chưa có kinh nghiệm đau thương của tử biệt sinh ly, nhưng nhờ có Bà Nội, Mẹ của Bố em, mà em mới hiểu được thế nào là sự hy sinh vô bến bờ của người mẹ.
Từ khi có Bà Nội, Bố thường bảo em: “Con phải thương bà Nội nhiều hơn nữa, Bà Nội khổ với Bố không kể xiết!” Bố em nói: Hồi nhỏ năm nào Bố cũng bị một lần cảm thương hàn liệt giường cả tháng. Ăn gì cũng nôn ra hết, sốt nằm li bì, phải uống nước gạo rang mới cầm lại được, rồi uống thuốc Bắc cả tháng trời. Bà Nội phải sắc thuốc, canh lửa. Nửa đêm tới cử uống thuốc, Bà Nội dậy hâm thuốc cho nóng (thời đó chưa có microwave hay bếp gas như bây giờ) rồi dỗ cho Bố uống kẽo không lại nôn ra hết, vì thuốc Bắc rất khó uống, nhất là với một đứa trẻ. Khi ấy Bố đang học lớp nhất tức là lớp năm bây giờ). Cho tới khi Bố 15 tuổi mới không bị loại cảm thương hàn đó nữa”.
Năm 1968, tổng động viên, Bố em vào quân trường Thủ Đức. Từ đó Bố vui đời binh nghiệp. Phải xa nhà, phải theo hành quân, những ngày phép tuy ngắn ngũi nhưng cũng đủ làm Bà Nội yên tâm là lời cầu nguyện của Bà đã được Cao Xanh nghe thấy. Khi Cộng Sản sắp vào Sàigòn, 2 bà chị làm ở DAO trong phi truờng TSN bảo cả nhà được di tản bằng Airlift, nhưng khi đó Bố đang bôn tẩu trên đường từ Ban Mê Thuột về Saigòn, nên Bà Nội bảo phải chờ, thế là cả nhà bị kẹt lại chỉ trừ Ông Nội, đã đi trước một tuần. Khi ra phi trường Ông Nội còn nhắn về bảo cả nhà phải đi, vì Ông Nội có cảm tưởng đây là tử biệt, sẽ không còn bao giờ gặp lại nữa! Nhưng Bà Nội lòng không bỏ con, thà phải bị đọa đày! Thế là Bố về đến nhà đúng sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bà Nội là người vui nhất khi thấy Bố lành lặn không sứt mẻ, dù trãi qua bao nhiêu ngày gai góc đói khát vượt rừng vượt biển để về với mẹ cha. Cả miền Nam trở thành một nhà tù khổng lồ, và Bố đi khắp các trại tù Cộng Sản, từ Nam ra Bắc. Sau 2 năm Bà Nội được lên thăm con tại Long Giao (trước khi Bố bị đưa ra Bắc). Bố quỳ xuống lạy Bà Nội xin tha tội bất hiếu, đã không giữ được giang san. Bà Nội sững người bất động khi nhìn thấy Bố quỳ, chỉ có 2 hàng nước mắt tuông xuống đôi gò má già nua. Khi Bố trở vào trại, ngoái nhìn lại vẫn thấy Bà Nội đứng nhìn theo cho tới khi khuất bóng. Kể lại điều này, Bố nói: “khi đó Bố mới hiểu câu: Nhi hành hướng tiền lộ, mẫu ý tại tha hương (đứa con lên đường ra tới ngõ, lòng mẹ đã ở chốn quê người). Rồi Bố nhắc nhở: “Các con còn sung sướng, còn được ở với Bố Mẹ, đừng vội mong đi, hãy tận hưởng những giờ phút đó, vì sau này các con có đem cả cuộc đời để đổi lại cũng không được, vì nhũng ngày tháng đó với tình mẹ cha là VÔ GIÁ!”
Sau đó Bố ra Bắc. Trước khi bọn Tầu đánh Việt Nam Cộng Sản năm 1979, Bố được chuyển từ Lào Cai (biên giới giáp Tầu) về Vĩnh Phú. Khi Cộng Sản cho thăm nuôi, Bà Nội và Bác Ba ra thăm Bố, sau khi bán sạch những gì còn có thể bán được để làm lộ phí. Khi qua suối, suýt nữa Bà Nội bị nước cuốn đi vì đêm qua mưa rất lớn. Một con trâu không dủ sức kéo chiếc xe trâu trong dòng suối nước tuông như thác, may mà có nhiều người phụ đẩy (nước tới thắt lưng). Cuộc gặp gở tưởng như chiêm bao, giữa dương gian và địa ngục. Bà Nội già và gầy rất nhiều. Điều Bà nhắn nhủ với bố là hãy giữ vững tinh thần: “Mẹ thà có con chết trong tù Cộng Sản, còn hơn là đạp lên anh em mà về. Mẹ hãnh diện vì con không bị sự đói khổ làm rỉ sét phẩm cách của người trai nước Nam.” Ôi rõ ràng lòng mẹ như tấm gương trong cho con soi! Chẳng những Bà Nội nuôi Bố ăn học cho thành danh, nhưng Bà còn muốn Bố cho Bà niềm hãnh diện có một đứa con nên người, đứng giữa đất trời không hỗ thẹn với non sông.
Khi Bà Nội bị ngã vì phải dậy đi tiểu suốt đêm, Bố đưa Bà Nội vào bệnh viện, mới biết Bà bị bí tiểu nên không ngủ được mà không dám kêu, sợ con mất ngủ! Bà bị gẫy xương vai và phải mang bọc nước tiểu bên người. Do vậy Bố đành gửi Bà Nội vào viện dưỡng lão vì họ có sẵn y tá suốt ngày đêm và nhân viên lo vệ sinh và ăn uống. Mỗi ngày Bố vào với Bà Nội một lần để dỗ Bà Nội ăn ít nhất một bữa cơm trọn vẹn. Mỗi khi Bố vào, Bà Nội hỏi thăm từng đứa cháu không sót một ai. Mỗi cuối tuần chúng em đều đi với Bố vào thăm Bà. Nhìn thấy Bà Nội mỗi lần gặp Bố đều hôn Bố như một đứa con nhỏ, chúng em rất cảm động. Bố đã ngoài 60 mà Bà Nội vẫn xem Bố như đứa con còn bé yêu quí của mình ngày nào. Khi chúng em hỏi về sự âu yếm này, Bố nói trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân có câu: “Mẫu niên nhất bách tuế, trường ưu bát thập nhi”, nghĩa là mẹ dù trăm tuổi. vẫn lo cho người con đã 80! Một hôm Bố từ trường Cal Poly Pomona ra, liền chạy thẳng tới viện dưỡng lão (Bố đi học để làm gương cho con cái), đút cho Bà Nội ăn bữa cơm chiều. Ăn xong, Bà nói: “ Mẹ thấy con cực quá, vừa đi học, vừa lo cho mấy đứa nhỏ, rồi còn lo cho mẹ nữa. Thôi để mẹ đi cho con đỡ cực nghe”. Đương nhiên Bố tưởng Bà Nội nói đùa, vì Bà cũng rất thích đùa! Tuy tuổi Bà đã 90, nhưng không có bệnh mãn tính. Không ngờ đó là ngày cuối! Trưa hôm sau viện dưỡng lão gọi điện thoại cho Bố nói Bà ngủ không chịu dậy, chúng tôi đã đưa Bà đến UCI!
Sau đám tang Bà Nội, Bố nói: “Bố vẫn thiếu sót rất nhiều trong nhũng ngày phụng dưỡng Bà Nội. Dù cha mẹ mình khi già có khó chịu, có kỳ cục có chướng thế nào, mình cũng phải thương quí bậc sinh thành, nên Bố nói thật, dù cho có đi hết cuộc đời, chúng ta cũng không bao giờ đền đáp nổi ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha! Đối với bố, bố vừa mất đi một kỳ quan mà trong đời ai cũng có, nhung khi mất rồi chúng ta mới thấy quí, mới thấy thiếu ngọn lửa nồng của tình mẹ.”
Mắt em bỗng cay vì bài học vô giá mà Bố vừa chỉ ra cho em. Em tự hứa với mình, sẽ cố gắng không để mất một giờ phút hạnh phúc nào khi còn được ở với Mẹ Cha! Và bây giờ như mắt được mở ra, em nhìn thấy Mẹ là một kỳ quan, và ánh hào quang của tình Mẹ sẽ không bao giờ tắt trong tim em!
Westminster, 4/30/2013
Phan Minh Trị
UCLA
Email: phankphan@aol.com
Gửi ý kiến của bạn