Hoạ sĩ Lê Tài Điển, người và sách đến từ Paris, vào lúc 3 giờ chiều Chủ Nhật 18 tháng 11, 2012 sẽ có buổi ra mắt sách và gặp gỡ thân hữu tại Việt Báo Gallerytrong một tiệc trà thân mật. Ban tổ chức gồm Nhã Ca, Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hợp, Nguyên Khai, Hồ Thành Đức, Bé Ký, Nguyễn Xuân Hoàng cùng các thân hữu của Lê Tài Điển trân trọng kính mời tham dự.
Lê Tài Điển là một hoạ sĩ, điêu khắc gia, người viết rất được quí trọng.
Sinh năm 1937 tại Mỹ Tho, ông tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, 1962.
Từ cuối 1963, ông du học Pháp, tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Paris, 1968; Làm việc tại xưởng vẽ của hoạ sĩ Raymond Legueult (maitre dalier); Làm báo Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam ở Paris, thời Nguyễn Xuân Nghĩa chủ tịch.
Cuối 1971, về Việt Nam, thành viên Hội Hoạ Sĩ Trẻ, do Nguyễn Trung chủ tịch.
Tổng thư ký tạp chí Thời Tập, do Viên Linh chủ nhiệm.
Hai năm sau biến cố tháng Tư 1975, hoạ sĩ trở lại Pháp.
Từ 1977, dạy trường Mỹ Thuật ở Sartrouville 16 năm, cho đến khi về hưu, 2005.
Từ 1963, ông đã tham dự nhiều triển lãm hội hoạ trong, ngoài nước.
Giải nhất trong “4ème Rencontre International de Peinture” tại Turin, Italia 1967;
Giải ba Grand Prix de New Yok, 1968.
Lê Tài Điển, Tranh Nguyễn Thị Hợp, 2012.
Tuyển tập Lê Tài Điển, Những Mảng Rời” do Nhà Xuất Bản Biển Khơi, ĐKSS-Paris-Normandie thực hiện, 180 trang giấy quí, bìa cứng, in mầu, gồm 58 tranh, 42 bích chương, 8 bài viết của Lê Tài Điển và 16 bằng hữu viết về ông. Xin trích:
“…..Cũng chân dung này NgH đã chộo được anh với phông nền là cảng Le Havre, chiều chủ nhật 7-8-2011. Thời tiết mùa hè mà nhiệt độ tụt xuống 15. Gió tung toé. Sóng dữ”
Trần Thị NgH., trích ảnh và bài viết “Nụ Cười Xé Hai”
“Trong cái dáng mệt mỏi, như chồng chất nhiều lận đận lao đao kia, lại lãng đãng một điều gì êm ả.”
Đặng Mai Lan, trích “Chân Dung củaBiển”
(Paris, người Việt và tranh Lê Tài Điển)
“Tuy nhiên, trong tôi lại dấy lên một câu hỏi khác. Câu hỏi: Với một người có khuôn mặt và, đôi mắt tự thân đã là hội hoạ, liệu y có cần phải vẽ nhiều nữa chăng?”
Du Tử Lê
(Lê Tài Điển và những bức tranh…..)
Xin mời đọc bài viết của Nhã Ca.
Lê Tài Điển, Người Bạn
Nhã Ca
Bạn mà không phải bạn. Không phải bạn mà bạn.
Có khi còn bạn hơn bạn, theo kiểu thường thấy.
Đó là họa sĩ Lê Tài Điển và chúng tôi.
Cố nhớ, chuyện Sàigòn kiếp trước. Gặp nhau hồi nào? Không biết. Khỏi cần nhớ.
Tên tuổi Lê Tài Điển có đó, từ lâu, giữa Nguyễn Trung và các bạn hoạ sĩ.
Với Nguyễn Xuân Nghĩa thời Tổng Hội Sinh Viên Paris, chuyện từng kể là Lê Tài Điển đã phụ trách dựng cảnh cho Hội Tết Sinh Viên 1969, chỉ với mấy bình sơn xịt, làm sống lại không khí trận chiến Mậu Thân.
Sau thời Mậu Thân rồi hoà đàm Paris, một số lớn các bạn kéo nhau về nước, trong số này có ông bạn hoạ sĩ.
Tại Saigon, ngôi nhà gia đình của Nguyễn Xuân Nghĩa ở đường Hiền Vương có tranh Lê Tài Điển nghênh ngang ngay trên tường phòng khách. Tranh lớn ngoại khổ. Hơn sáu thước vuông. Nghe nói hoạ sĩ đã phải làm khung căng bố vẽ ngay tại chỗ. Đó là thời sơn dầu Lê Tài Điển còn đủ mầu sáng láng gợi nhớ tranh Marc Chagall.
Bên bức tranh lớn ấy, đêm Giáng Sinh Sàigon sau đổi đời 1975, đám bạn còn lại vài chục tên đã ngồi lại bên nhau lần cuối. Nửa đêm, có Mai Thảo đọc thơ, Hoài Bắc cầm lại đàn ghi ta, và Thái Thanh hát hát trong nước mắt dàn dụa.
Sau họp mặt lần ấy là tan nát.
Chẳng hiểu cái tranh Lê Tài Điển bây giờ ra sao?
Mấy năm đầu ở Thụy Điển, một lần điện thoại của Nguyễn Trung từ Paris, nhắc tới Lê Tài Điển, nói hai tên đang đứng bên nhau, uống quá trời uống. Chúng tôi gửi lời thăm nhau qua Nguyễn Trung.
Năm 1992, vợ chồng chúng tôi cùng Kiều Chinh từ Đức sang Pháp, đi xe hơi bằng đường làng! Họp mặt, có bạn hữu đông vui. Điển đến với Nguyễn Cầm. Tôi nhìn khuôn mặt vừa lạ vừa quen. Đó là cái vênh váo, mới coi tưởng “ngầu”, thật ra là vụng về, ngây thơ vô số tội. Gặp là thân, như đã từ bao năm với Nguyễn Trung, rồi với Kiệt Tấn, với Trần Tam Tiệp. Ông Tiệp lúc đó còn chưa ngồi xe lăn, khoe sáng sáng vẫn đủng đỉnh đi nhìn mấy bà đầm, cô đầm dẫn chó xuống phố.
Lần thứ hai tôi tới Pháp một mình. Càng thân thêm với Điển. Không chỉ có Trần Tam Tiệp, mà còn thêm cặp bạn Phạm Kế Viêm-Diệu Tâm, anh chị Đỗ Việt và chị Phương Lan. Nơi hẹn gặp là một quán phơ của quận 13. Điển tới, tay xách chai rượu đỏ, lại vênh váo cái mặt với giọng nói ú ớ, “Phải uống cho hết. Một chai cho bà đó.” Nhìn mà thấy cười. Ngồi giữa Paris, khui Cabernet Sauvignon của Bordeaux ra uống với... phở. Vậy mà cả bọn cũng đốn ngã, không chỉ một mà còn thêm hai ba chai tiếp viện. Vậy mà rượu vang trộn phở vẫn làm cả bọn cùng “phê”, họa sĩ và nhà văn có lúc tranh nhau nói, Lê Tài Điển ú ớ không địch nổi Kiệt Tấn.
Lần thứ Ba, lại Paris, sau một buổi sinh hoạt.
Vừa trả bài xong là có Lê Tài Điển chờ sẵn.
“Đi. Đi thôi. Các bạn gọi.”
Lại quán Việt quận 13. Đỗ Việt đón Trần Tam Tiệp, Kiệt Tấn. Thêm mấy bạn “đồng bọn.” Lê Tài Điển cho biết Nguyễn Trung có để lại 3 cái tranh, nói để dành cho tôi, còn dặn dò Điển là phải trao tận tay.
Trung là tay làm tranh kiểu rị mọ, hết cọ lại dao, đôi khi cả ngày chỉ làm cho bằng được một điểm sáng hay tối. Nhờ vậy mà dù là khoảnh màu tối ám, vẫn bật lên cái chất sơn trong veo lấp lánh. Mấy tấm tranh Trung bắt Điển trao tận tay cho tôi hôm ấy không giống bất cứ tranh Nguyễn Trung nào khác. Cả ba đều là những nhát sơn đen quẹt nhanh quẹt mạnh trên khung bố rồi có sao để vậy.
Lâu không có dịp cụng ly, mấy năm trước, biết có Nguyễn Xuân Nghĩa ở Việt Báo, Lê Tài Điển gửi từ Paris sang bài viết dành cho Việt Báo xuân Ất Dậu, 2005: “Trong Tôi Xuân Đến.” Kèm bài còn có cặp rượu đỏ, nhắn để các bạn uống mừng Lê Tài Điển... mổ tim.
Chẳng biết trái tim của hoạ sĩ ra sao, nhưng bài viết cho mùa xuân trong chàng thì có mòi lai láng. Chàng kể về một chân dung thần thoại:
“Đêm nay, cùng một bầu trời, cùng những vì sao anh với em cùng nhìn. Con đóm hoang di động, em mói tuổi nhỏ thường chụp bắt nó, cùng chui vào mền để nhìn ánh sáng chập chờn trong bóng tối – đang chứng kiến đội ta.
Anh dừng lại nơi có ánh sáng cuối đường, tìm cái bằng lòng của gã du mục. Hoàn thành cuộc hành trình trầm tư. Nét cọ cuối cùng cho điểm sáng trong tranh sau những đơn giản và gạn lọc, để rôài anh đặt cho nó một cái tên: Thần thoại.”
(Trích Trong Tôi Xuân Đến, Lê Tài Điển)
Chân dung thần thoại của nàng có “màu xanh phong rêu, màu hồng nhạt chất chứa nhiều sắc độ”. Có cả “cánh hồng” nữa. Nhưng với nàng thì, “em không nhìn được chân dung của em”. Và chàng tự thú là đã phạm một trọng tội, chỉ vì có một người Ý Đại Lợi đổi “một số tiền không đáng giá cho anh.”
Không đáng giá mà vẫn phải để cho thần thoại ra đi.
Tội chàng với nàng đúng là đáng mổ, đáng xẻ.
Chỉ mổ cái tim thôi, là còn nhẹ. Rất hên cho ông.
Đọc “Trong Tôi Xuân Đến” của Lê Tài Điển xong, về nhìn kỹ mấy cái tranh “rượu vẽ” của Nguyễn Trung mà Điển tự tay cuốn cho tôi mang đi, tôi không ngạc nhiên khi thấy cả hai ông hoạ sĩ đều đã rời bỏ hình tượng mầu sắc cũ để sang tranh trừu tượng.
Bài viết của Điển cũng nhắc “...đã một lần trên chuyến tầu tách rời hải cảng, chuyên chở một linh hồn, mang theo tâm sự xuôi miền đất lạ...” Tôi nhớ câu này khi đọc bài Thụy Khuê viết về Điển, kể về những đêm say một mình trên con tầu Paris – Sartrouville, Điển quên bẵng bến xuống, và cứ ở lì trên tàu, đề nó đưa đến đâu thì đến.
*
Ông bạn ngây thơ vô số tội,
Không phải chỉ một tội túng tiền bán luôn thần thoại đâu.
Tiếp tục thú tội bằng cách viết bài báo xuân Việt Báo năm tới đi.
Cặp rượu ông bắt bạn vác từ Paris sang cho, Nguyễn Xuân Nghĩa khui xong từ lâu, mà vẫn chưa có dịp cụng ly với bạn mình. Nghe đâu cuối năm nay, có Nguyễn Trung trở lại California. Còn sức bay sang không? Cả bọn nhớ bạn.
Nhã Ca
(trích từ sách “Những Mảng Rời” của Lê Tài Điển)
Lê Tài Điển là một hoạ sĩ, điêu khắc gia, người viết rất được quí trọng.
Sinh năm 1937 tại Mỹ Tho, ông tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, 1962.
Từ cuối 1963, ông du học Pháp, tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Paris, 1968; Làm việc tại xưởng vẽ của hoạ sĩ Raymond Legueult (maitre dalier); Làm báo Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam ở Paris, thời Nguyễn Xuân Nghĩa chủ tịch.
Cuối 1971, về Việt Nam, thành viên Hội Hoạ Sĩ Trẻ, do Nguyễn Trung chủ tịch.
Tổng thư ký tạp chí Thời Tập, do Viên Linh chủ nhiệm.
Hai năm sau biến cố tháng Tư 1975, hoạ sĩ trở lại Pháp.
Từ 1977, dạy trường Mỹ Thuật ở Sartrouville 16 năm, cho đến khi về hưu, 2005.
Từ 1963, ông đã tham dự nhiều triển lãm hội hoạ trong, ngoài nước.
Giải nhất trong “4ème Rencontre International de Peinture” tại Turin, Italia 1967;
Giải ba Grand Prix de New Yok, 1968.
Lê Tài Điển, Tranh Nguyễn Thị Hợp, 2012.
Tuyển tập Lê Tài Điển, Những Mảng Rời” do Nhà Xuất Bản Biển Khơi, ĐKSS-Paris-Normandie thực hiện, 180 trang giấy quí, bìa cứng, in mầu, gồm 58 tranh, 42 bích chương, 8 bài viết của Lê Tài Điển và 16 bằng hữu viết về ông. Xin trích:
“…..Cũng chân dung này NgH đã chộo được anh với phông nền là cảng Le Havre, chiều chủ nhật 7-8-2011. Thời tiết mùa hè mà nhiệt độ tụt xuống 15. Gió tung toé. Sóng dữ”
Trần Thị NgH., trích ảnh và bài viết “Nụ Cười Xé Hai”
“Trong cái dáng mệt mỏi, như chồng chất nhiều lận đận lao đao kia, lại lãng đãng một điều gì êm ả.”
Đặng Mai Lan, trích “Chân Dung củaBiển”
“Có một chữ gần ông nhất là ít: nói ít, viết ít, vẽ ít………… …..”
Thụy Khuê(Paris, người Việt và tranh Lê Tài Điển)
“Tuy nhiên, trong tôi lại dấy lên một câu hỏi khác. Câu hỏi: Với một người có khuôn mặt và, đôi mắt tự thân đã là hội hoạ, liệu y có cần phải vẽ nhiều nữa chăng?”
Du Tử Lê
(Lê Tài Điển và những bức tranh…..)
Xin mời đọc bài viết của Nhã Ca.
* * *
Lê Tài Điển, Người Bạn
Nhã Ca
Bạn mà không phải bạn. Không phải bạn mà bạn.
Có khi còn bạn hơn bạn, theo kiểu thường thấy.
Đó là họa sĩ Lê Tài Điển và chúng tôi.
Cố nhớ, chuyện Sàigòn kiếp trước. Gặp nhau hồi nào? Không biết. Khỏi cần nhớ.
Tên tuổi Lê Tài Điển có đó, từ lâu, giữa Nguyễn Trung và các bạn hoạ sĩ.
Với Nguyễn Xuân Nghĩa thời Tổng Hội Sinh Viên Paris, chuyện từng kể là Lê Tài Điển đã phụ trách dựng cảnh cho Hội Tết Sinh Viên 1969, chỉ với mấy bình sơn xịt, làm sống lại không khí trận chiến Mậu Thân.
Sau thời Mậu Thân rồi hoà đàm Paris, một số lớn các bạn kéo nhau về nước, trong số này có ông bạn hoạ sĩ.
Tại Saigon, ngôi nhà gia đình của Nguyễn Xuân Nghĩa ở đường Hiền Vương có tranh Lê Tài Điển nghênh ngang ngay trên tường phòng khách. Tranh lớn ngoại khổ. Hơn sáu thước vuông. Nghe nói hoạ sĩ đã phải làm khung căng bố vẽ ngay tại chỗ. Đó là thời sơn dầu Lê Tài Điển còn đủ mầu sáng láng gợi nhớ tranh Marc Chagall.
Bên bức tranh lớn ấy, đêm Giáng Sinh Sàigon sau đổi đời 1975, đám bạn còn lại vài chục tên đã ngồi lại bên nhau lần cuối. Nửa đêm, có Mai Thảo đọc thơ, Hoài Bắc cầm lại đàn ghi ta, và Thái Thanh hát hát trong nước mắt dàn dụa.
Sau họp mặt lần ấy là tan nát.
Chẳng hiểu cái tranh Lê Tài Điển bây giờ ra sao?
Nhã Ca và Lê Tài Điển với tranh đang vẽ tại California, tháng 11, 2012.
Với tôi, sau hơn 14 năm tù đầy, treo bút, khi đã tái sinh một kiếp khác, hai tên “chưa là bạn mà vẫn bạn” mới có dịp gặp nhau.Mấy năm đầu ở Thụy Điển, một lần điện thoại của Nguyễn Trung từ Paris, nhắc tới Lê Tài Điển, nói hai tên đang đứng bên nhau, uống quá trời uống. Chúng tôi gửi lời thăm nhau qua Nguyễn Trung.
Năm 1992, vợ chồng chúng tôi cùng Kiều Chinh từ Đức sang Pháp, đi xe hơi bằng đường làng! Họp mặt, có bạn hữu đông vui. Điển đến với Nguyễn Cầm. Tôi nhìn khuôn mặt vừa lạ vừa quen. Đó là cái vênh váo, mới coi tưởng “ngầu”, thật ra là vụng về, ngây thơ vô số tội. Gặp là thân, như đã từ bao năm với Nguyễn Trung, rồi với Kiệt Tấn, với Trần Tam Tiệp. Ông Tiệp lúc đó còn chưa ngồi xe lăn, khoe sáng sáng vẫn đủng đỉnh đi nhìn mấy bà đầm, cô đầm dẫn chó xuống phố.
Lần thứ hai tôi tới Pháp một mình. Càng thân thêm với Điển. Không chỉ có Trần Tam Tiệp, mà còn thêm cặp bạn Phạm Kế Viêm-Diệu Tâm, anh chị Đỗ Việt và chị Phương Lan. Nơi hẹn gặp là một quán phơ của quận 13. Điển tới, tay xách chai rượu đỏ, lại vênh váo cái mặt với giọng nói ú ớ, “Phải uống cho hết. Một chai cho bà đó.” Nhìn mà thấy cười. Ngồi giữa Paris, khui Cabernet Sauvignon của Bordeaux ra uống với... phở. Vậy mà cả bọn cũng đốn ngã, không chỉ một mà còn thêm hai ba chai tiếp viện. Vậy mà rượu vang trộn phở vẫn làm cả bọn cùng “phê”, họa sĩ và nhà văn có lúc tranh nhau nói, Lê Tài Điển ú ớ không địch nổi Kiệt Tấn.
Lần thứ Ba, lại Paris, sau một buổi sinh hoạt.
Vừa trả bài xong là có Lê Tài Điển chờ sẵn.
“Đi. Đi thôi. Các bạn gọi.”
Lại quán Việt quận 13. Đỗ Việt đón Trần Tam Tiệp, Kiệt Tấn. Thêm mấy bạn “đồng bọn.” Lê Tài Điển cho biết Nguyễn Trung có để lại 3 cái tranh, nói để dành cho tôi, còn dặn dò Điển là phải trao tận tay.
Từ trái, tái ngộ tại California, 2012: Nguyễn Trung, Lê Tài Điển, Nhã Ca.
Buổi chiều đó, trên một căn lầu nhỏ, Điển mở mấy tấm bố, trải dưới nền xi măng, nói: “Không phải Nguyễn Trung đâu. Rượu nó vẽ đó.” Kể, lúc Trung ở Paris, tối tối cả bọn thường say mèm. Một đêm giữa cơn say, Trung lôi bố ra quẹt, thoáng cái là xong. Lúc tỉnh coi lại, Trung bảo mấy bức này phải dành cho mụ Nhã. Trung là tay làm tranh kiểu rị mọ, hết cọ lại dao, đôi khi cả ngày chỉ làm cho bằng được một điểm sáng hay tối. Nhờ vậy mà dù là khoảnh màu tối ám, vẫn bật lên cái chất sơn trong veo lấp lánh. Mấy tấm tranh Trung bắt Điển trao tận tay cho tôi hôm ấy không giống bất cứ tranh Nguyễn Trung nào khác. Cả ba đều là những nhát sơn đen quẹt nhanh quẹt mạnh trên khung bố rồi có sao để vậy.
Lâu không có dịp cụng ly, mấy năm trước, biết có Nguyễn Xuân Nghĩa ở Việt Báo, Lê Tài Điển gửi từ Paris sang bài viết dành cho Việt Báo xuân Ất Dậu, 2005: “Trong Tôi Xuân Đến.” Kèm bài còn có cặp rượu đỏ, nhắn để các bạn uống mừng Lê Tài Điển... mổ tim.
Chẳng biết trái tim của hoạ sĩ ra sao, nhưng bài viết cho mùa xuân trong chàng thì có mòi lai láng. Chàng kể về một chân dung thần thoại:
“Đêm nay, cùng một bầu trời, cùng những vì sao anh với em cùng nhìn. Con đóm hoang di động, em mói tuổi nhỏ thường chụp bắt nó, cùng chui vào mền để nhìn ánh sáng chập chờn trong bóng tối – đang chứng kiến đội ta.
Anh dừng lại nơi có ánh sáng cuối đường, tìm cái bằng lòng của gã du mục. Hoàn thành cuộc hành trình trầm tư. Nét cọ cuối cùng cho điểm sáng trong tranh sau những đơn giản và gạn lọc, để rôài anh đặt cho nó một cái tên: Thần thoại.”
(Trích Trong Tôi Xuân Đến, Lê Tài Điển)
Chân dung thần thoại của nàng có “màu xanh phong rêu, màu hồng nhạt chất chứa nhiều sắc độ”. Có cả “cánh hồng” nữa. Nhưng với nàng thì, “em không nhìn được chân dung của em”. Và chàng tự thú là đã phạm một trọng tội, chỉ vì có một người Ý Đại Lợi đổi “một số tiền không đáng giá cho anh.”
Không đáng giá mà vẫn phải để cho thần thoại ra đi.
Tội chàng với nàng đúng là đáng mổ, đáng xẻ.
Chỉ mổ cái tim thôi, là còn nhẹ. Rất hên cho ông.
Đọc “Trong Tôi Xuân Đến” của Lê Tài Điển xong, về nhìn kỹ mấy cái tranh “rượu vẽ” của Nguyễn Trung mà Điển tự tay cuốn cho tôi mang đi, tôi không ngạc nhiên khi thấy cả hai ông hoạ sĩ đều đã rời bỏ hình tượng mầu sắc cũ để sang tranh trừu tượng.
Bài viết của Điển cũng nhắc “...đã một lần trên chuyến tầu tách rời hải cảng, chuyên chở một linh hồn, mang theo tâm sự xuôi miền đất lạ...” Tôi nhớ câu này khi đọc bài Thụy Khuê viết về Điển, kể về những đêm say một mình trên con tầu Paris – Sartrouville, Điển quên bẵng bến xuống, và cứ ở lì trên tàu, đề nó đưa đến đâu thì đến.
*
Ông bạn ngây thơ vô số tội,
Không phải chỉ một tội túng tiền bán luôn thần thoại đâu.
Tiếp tục thú tội bằng cách viết bài báo xuân Việt Báo năm tới đi.
Cặp rượu ông bắt bạn vác từ Paris sang cho, Nguyễn Xuân Nghĩa khui xong từ lâu, mà vẫn chưa có dịp cụng ly với bạn mình. Nghe đâu cuối năm nay, có Nguyễn Trung trở lại California. Còn sức bay sang không? Cả bọn nhớ bạn.
Nhã Ca
(trích từ sách “Những Mảng Rời” của Lê Tài Điển)
Gửi ý kiến của bạn