Chùa Trấn Quốc, Hà Nội (Bài 1)
: Chùa Trấn Quốc bên bờ Hồ Tây. (ảnh:www.archi.vn )
: Cây bồ đề trong sân chùa có nguồn gốc từ cội bồ đề nơi Phật Thích Ca thành đạo. (ảnh:www.yume.vn)
Phất Phơ Ngọn Trúc Trăng Tà
Tiếng Chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ
(Dương Khuê)
Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất của nước ta. Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý Nam Đế (544-548), lúc ấy thuộc Phường Yên Hoa, cạnh bờ sông Cái, tức là sông Hồng. Nhưng vì hàng năm nước sông Hồng lên to làm xói lở bờ sông, cho nên vào năm 1615, chùa đã được dời vào gò đất Kim Ngư, nay thuộc Quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Lúc mới xây dựng, chùa được đặt tên là chùa Khai Quốc. Đến đời vua Lê Thái Tông (1434-1442) thì đổi tên thành chùa An Quốc. Vào thời vua Lê Kính Tông, năm 1615, chùa được di dời và đổi tên thành chùa Trấn Quốc. Vào năm 1842, vua Thiệu Trị đổi tên chùa thành Chùa Trấn Bắc, nhưng người dân vẫn quen gọi là Chùa Trấn Quốc. Chùa đã trải qua nhiều đợt kiến thiết, trùng tu bởi các triều đại khác nhau.
Chùa Trấn Quốc vừa có một lịch sử lâu đời, vừa gắn liền với các vị cao tăng, danh nhân của nước Việt. Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái Hậu Ỷ Lan đã từng mở tiệc chay thết đãi cao tăng, lui tới nơi đây đàm đạo cùng các chư tăng. Các Thiền Sư Khuông Việt, Thảo Đường, Tịnh Không đều thụ giáo hoặc tu trì ở ngôi chùa này. Vào năm 580, Thiền Sư danh tiếng của Ấn Độ là Ti ni đa la lưu chi sang Việt Nam cũng đã dừng chân ở ngôi chùa này một thời gian.
Vào năm 1069, vua Lý Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành, bắt cả vua Chiêm Thành Chế Củ và một số tù nhân, trong đó có một vị sư rất am hiểu kinh pháp. Vua tìm hiểu ra mới biết đó là Thiền Sư Thảo Đường, bèn phong cho thiền sư này chức Quốc Sư và mời vào trụ trì trong chùa Khai Quốc. Chùa cũng là tổ đình của Thiền Phái Tào Động truyền bá ở Việt Nam vào thời Hậu Lê.
Chùa có cảnh trí thiên nhiên thật đẹp, tĩnh lặng. Bao quanh chùa là sen trắng, sen hồng của mặt nước Hồ Tây. Đúng ở sân chùa, nhìn ra ba mặt là sóng nước mêng mông Tây Hồ, một thắng cảnh được nhắc đến nhiều trong thi ca của Hà Nội. Trong sân chùa có cây bồ đề xum xuê tỏa bóng mát, là một nhánh chiết từ cội bồ đề từ 25 thế kỷ trước nơi Đức Phật THích Ca thành đạo. Cây này do tổng thống Ấn Độ mang sang tặng Việt Nam vào năm 1958. Trong chùa có pho tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn làm bằng gỗ thếp vàng rất đẹp. Chùa còn giữ được 14 tấm bia cổ, nhiều tấm bia ghi lại các đợt trùng tu chùa.
Trước cảnh đẹp hoài cổ của chùa Trấn Quốc, Bà Huyện Thanh Quang cũng đã từng tức cảnh làm thơ:
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy tòa sen tỏa hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu!
Trên hai cột trước cửa Chùa là hai câu đối nổi tiếng:
Trải bao phen gió Á mưa Âu, trơ đá vững đồng, chót vót cột trời chùa Trấn Quốc
Riêng một thú hoa đàm đuốc tuệ, sớm chuông chiều trống, thênh thang Phật cảnh Tây Hồ
Chùa Trấn Quốc và Hồ Tây đã hợp thành một danh lam thắng cảnh mà du khách không thể bỏ qua.
VB
(Loạt bài này được sự bảo trợ của Thiền Đường Mây Từ, Thiền Viện Chân Nguyên)
(Tài liệu tham khảo: Những Ngôi Chùa Danh Tiếng - Nguyễn Quảng Tuân)