Cao Bá Minh Mời Dự Triển Lãm 'The Painter of Dreams': Những Họa Phẩm Của ‘Đêm Xanh Mênh Mông’Tại Việt Báo Gallery, Thứ Sáu, Thứ Bảy, Chủ Nhật, Ngày 27, 28, 29/11
Tranh của Cao Bá Minh
WESMINSTER (VB) - Vào Thứ Sáu, Thứ Bảy và Chủ Nhật, ngày 27, 28, và 29 tháng 11 năm 2009, tại Việt Báo Gallery, trên đường Moran, thành phố Westminster, Cao Bá Minh sẽ triển lãm tranh với chủ đề "The Painter of Dreams" (Người Vẽ Những Giấc Mơ).
Phóng viên Việt Báo đã có dịp chuyện trò cùng Cao Bá Minh và được anh tâm sự một đôi điều về thế giới hội họa độc sáng của anh. Điều đặc biệt, Cao Bá Minh còn trao cho phóng viên VB mấy bài thơ anh đã sáng tác.
Trong bài thơ "Âm thanh và màu sắc," Cao Bá Minh viết:
"Màu sắc là nguyên bản đường về nguyên tính."
Người ta lấy màu sắc để phô diễn nghệ thuật bút pháp, lột trần vẻ đẹp tuyệt vời nguyên sơ của thế giới biểu tượng, nhưng Cao Bá Minh xem màu sắc là "đường về nguyên tính," hoặc có lần, đâu đó, anh nói là "tấm gương phản chiếu tính không."
Đối với Cao Bá Minh, "hội họa là tôn giáo của tôi," vì người vẽ tranh chính là kẻ thực nghiệm, thể nghiệm, thể nhập vào cảnh giới thiêng liêng, mầu nhiệm, vi diệu, xuất trần của thực tại, của thực tính, của nguyên tính của vũ trụ qua sắc hình hữu tướng mà vô tướng, qua thinh âm mà trầm mặc vô thanh.
Sở dĩ có thể biểu đạt tới cảnh giới hữu tướng mà vô tướng, thinh âm mà trầm mặc vô thanh là vì nhờ thể nghiệm "tính không." "Tính không" là chữ các nhà Phật học Trung Hoa dịch nghĩa từ Phạn ngữ (Sanskrit) "Sunyata." Tính không là thể tính vốn "Không" của mọi sự vật bao hàm thế giới vật thể và tâm thức. "Không" ở đây tức là rỗng suốt trống vắng, là không có tự thể, mặc dù trên bề mặt hiện tượng vẫn có sự hiện hữu. Sự hiện hữu đó, vì vậy, là do các duyên, các điều kiện giả hợp mà thành. Trong các duyên đó có cả tâm thức khởi động của con người. Sự khởi động này cũng nằm trong tương quan duyên sinh. Vì là duyên sinh cho nên, các hiện tượng không có bất cứ một tự thể, tự ngã tồn tại độc lập nào cả. Chúng chỉ nương nhau mà có, chỉ tồn tại trong mối quan hệ tương đãi, tương sinh, tương tức. Có đó mà không phải thật có. Hữu mà vốn là Không. Các nhà Phật học Trung Hoa thường lý giải rằng đó là "đương thể tức không," không trong chính tự thể, ngay trong lúc hiện hữu.
Một họa phẩm có mặt là do mối tương quan, tương duyên của nhà vẽ tranh, cây cọ, màu sắc, tấm vải, mảnh giấy, sự sáng tạo, phòng nghệ thuật, cơ sở sản xuất cây cọ, mực, giấy, nhà vẽ tranh lại có mối tương quan tương duyên với gia đình, xã hội, học đường, trường phái, v.v… và cứ thế lan ra, chuyền ra, liên hệ đến vô lượng vô số sự vật trong một quốc độ, trong toàn thể vũ trụ pháp giới, điều mà trong Phật Giáo gọi là "trùng trùng duyên khởi." Thiếu một trong vô số những yếu tố, điều kiện, nhân duyên đó thì không thể có họa phẩm. Như vậy, họa phẩm chỉ là một tên gọi, giả danh, của một tập hợp nhiều điều kiện, nhiều duyên. Họa phẩm, tận cùng bản thể, không là gì cả, là "tính không."
Trong ý nghĩa này, người vẽ tranh thực hiện một họa phẩm há không phải là trải nghiệm "tính không,' đó sao"
Nói đến màu sắc và âm thanh trong thế giới hội họa, Cao Bá Minh diễn giải trong bài thơ "Âm thanh và màu sắc":
"Màu sắc là âm thanh
Âm thanh là màu sắc
Nở tung và trào vọt mênh mông
Chúng băng qua mọi biên giới
Mọi ước lệ không ý nghĩa
Màu sắc là nguyên bản đường về nguyên tính
Là hoang sơ
Là phá bỏ và xây dựng…"
Cao Bá Minh trong cõi lịch nghiệm "tính không" hay "nguyên tính" ấy đã mở tung thế giới để vượt qua mọi biên giới và thâm nhập vào cõi vô cùng của màu sắc. Ở đó, Cao Bá Minh thấy màu xanh mênh mông. Màu xanh như màu xanh của "đêm xanh mênh mông," của "đáy biển mênh mông," của "màu xanh bát ngát dòng sông," của "trời xuân bay lướt thướt,' của "thời gian đầy bóng lá ngoài khung cửa," v.v… Đó là màu xanh của cõi lòng sâu lắng, của không gian vô tận, của biển cả bao la, của cảnh giới màu sắc và âm thanh dung thông bất nhị.
Nhưng, tận cùng là cõi "lẻ loi và cô đơn." Nhà nghệ thuật sáng tạo độc đáo là con người sống trong cảnh "lẻ loi và cô đơn" tột cùng, vì chính trong khoảnh khắc, trong sát na ấy sự sáng tạo mầu nhiệm, không định kiến, không trường phái, không kiểu mẫu, không khuôn sáo, không đeo níu, không vướng mắc điều gì, bùng vỡ ra, tuông chảy ra, trào dâng ra trên đầu cây cọ, trên đầu ngọn bút, hay trên đầu những ngón tay đang múa, đang nhảy.
Từ đây, người xem tranh Cao Bá Minh có thể hiểu được đôi điều về những họa phẩm của anh với màu sắc và hình ảnh mờ nhạt không định hình như ẩn như hiện, như có như không, như mê như mộng, như thể như tướng, như "đêm xanh mênh mông" mà kẻ lữ hành là một tên mộng mị, ảo ảo thật thật, lãng du giữa cuộc tồn sinh như huyễn như mộng.
Được biết, Cao Bá Minh sinh năm 1942 tại tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Trước năm 1975, anh đã gia nhập vào ngành Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lần đầu tiên anh triển lãm tranh vẽ của mình là năm 1969 tại Đà Nẵng, do Hội Việt Mỹ bảo trợ. Nhưng cũng chính trong lần triển lãm đầu tiên này, một Cao Bá Minh với tài hoa độc đáo trong hội họa đã được giới mộ điệu biết đến. Trước năm 1975, tại Việt Nam, Cao Bá Minh đã tổ chức hàng chục cuộc triển lãm ở các trung tâm văn hóa Mỹ, Đức, Pháp. Trong số những người thưởng lãm tranh của Cao Bá Minh có cựu tổng lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng là ông Brown, người mà anh đã liên lạc được sau khi định cư tại Hoa Kỳ.
Được hỏi cơ duyên nào đưa đẩy anh vào con đường vẽ tranh, Cao Bá Minh nói rằng anh vốn say mê vẽ tranh từ thuở nhỏ. Anh cho biết rằng bị cuốn hút vào thế giới màu sắc, thế giới thiên nhiên, và đam mê nó còn hơn "mê đàn bà."
Cao Bá Minh đến Mỹ vào năm 1991 và định cư tại tiểu bang Illinois. Anh kể lại những ngày đầu tiên đến Mỹ, sống trong một căn nhà cũ kỹ, nhằm lúc mùa đông giá tuyết lạnh lẽo. Tuy nhiên, nhờ vậy, anh đã dành hết thì giờ để tiếp tục vẽ tranh. Từ đó đến nay anh đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm tranh thành công. Tại Bảo Tàng Viện Cựu Chiến Binh Việt Nam ở Chicago bức tranh "Portrait of a Soldier After War" (Chân Dung Người Chiến Binh Sau Chiến Tranh) được trưng bày thường trực như một trong những họa phẩm tiêu biểu về cuộc chiến Việt Nam.