Con vẫn hằng đêm về thăm Mẹ
Giật mình, con mới biết chiêm bao!
(Chiêm bao-thơ Vân Phong)
Sáng nay con lại đến chùa dưới tiết trời se lạnh lúc chớm thu. Tìm một góc ngồi trong chánh điện vẫn còn lưa thưa người, nhìn lên bức tôn tượng của đức từ phụ Thích Ca, con thấy lòng mình ấm lại. Dòng người tiếp tục bước vào cho kịp giờ thuyết giảng cuả TT Trí Thành. Đó đây những tà áo dài duyên dáng đang lễ Phật. Những đứa bé chạy đùa vô tư giữa khoảng trống chánh điện. Các cụ già đã sẵn sàng trong chiếc áo lam, bước chân run rẩy phải nương tựa vào sức trẻ đỡ nâng. Trên bàn pháp thoại ai đó đã chuẩn bị sẵn một bình hoa tuơi. Hai hoa hồng trắng thấp cao thẳng đứng, thấp hơn là một hoa hồng đỏ thắm. Xung quanh được điểm những lá xanh tươi cùng một chùm hoa nhỏ màu tím. Có ai hiểu được ẩn ý của người kết tạo nên bình hoa ấy hay không" Phút chốc chánh điện không còn chỗ trống, người người ngồi san sát nhau như muốn chia nhau hơi ấm của tình thương. Chỉ có tình thương mới làm cho con người ta vui sống. Tình thương yêu thì có nhiều nhưng không có thứ tình nào cao cả như tình Mẹ dành cho con. Tình Mẹ là thứ tình th
iêng liêng, bao la, cao rộng, một thứ tình vô biên, bất diệt của muôn loài. Dù có theo tôn giáo nào đi nữa, dù có là Phật tử hay không thì mỗi mỗi chúng ta vẫn không thể nào từ chối rằng mình có Mẹ.
“Thánh tăng Mục Kiền Liên dù đã chứng đắc thần thông, là một trong những bậc thượng thủ của tăng đoàn thời Phật, vẫn có phút chạnh lòng thương nghĩ đến Mẹ hiền, để rồi từ đó, mở ra một huyền thoại,, một bài học lịch sử, một câu chuyện thần kỳ cảm động, đẹp suốt ngàn năm sau. Câu chuyện của Thánh Tăng Mục Kiền Liên một mặt noi gương hiếu của những người con đối với cha mẹ, mặt khác, cũng nói đến lòng hiếu của người tăng sĩ. “Cát ái từ sở thân” không có nghĩa là cắt bỏ đi lòng hiếu và sự thương tưởng đến cha mẹ nhiều đời. Tăng sĩ Phật giáo, đối với phụ mẫu thì báo trả thâm ân sinh dưỡng bằng khuyến hóa và dẫn đạo tinh thần; đối với Thầy-Tổ thì đền đáp ân đức tiếp độ bằng cách nỗ lực tu học, chí cầu giác ngộ, phát thệ hoằng pháp lợi sinh”.
Ý nghĩa của mùa vu Lan báo hiếu có thể được hiểu như thế trong thời pháp thoại của TT Trí Thành.
Ba hồi chuông trống bát nhã vang lên, đạo tràng yên lặng chắp tay cung thỉnh chư Tôn Đức Tăng Ni quang lâm chánh điện để chứng minh cho buổi lễ vu Lan đầy cảm động sẽ được bắt đầu.
Phút mặc niệm để tưởng nhớ công ơn Thầy Tổ đã một đời hy hiến cho đạo pháp, nhớ ơn những anh hùng đã ngã xuống vì hai chữ tự-do đã phải bỏ mình nơi biển cả rừng sâu. Với một tấm lòng luôn nhớ đến những trọng ân, với một cảm xúc sâu xa và trải rộng, không có gì phải nói thêm về những tâm nguyện của TT Tâm Hòa, mà hãy lắng nghe để tự mình cảm nhận, cùng chia sẻ với Thầy qua bài diễn văn với giọng đọc rõ ràng, bằng niềm tin vững chắc:
"…Phật giáo có cả một hệ giáo lý dành cho nhân thừa, bao gồm mọi phương thức tu tập cũng như những sinh hoạt thường nhật phù hợp với chánh đạo. Hệ giáo lý này do đức Phật tùy thuận căn cơ chúng sinh mà thiết lập, nhằm giáo dục những người cư sĩ tại gia, còn ràng buộc gia đình. Do khía cạnh tại gia đó, nền giáo lý này từ nhân đến quả đều hướng về đời sống con người ở thế gian làm cứu cánh. Đó không phải là nền giáo lý mang lại giải thoát rốt ráo nhưng lại là nền tảng cho tiến trình tu tập dẫn đến giác ngộ tối hậu. Trong nền giáo lý nhân thừa ấy, có một giáo lý gọi là Báo Hiếu. Thoạt nghe qua, người ta có thể nói rằng giáo lý ấy ở đâu cũng có, đạo nào cũng có; nhưng kỳ thực, phương cách báo hiếu cũng như đối tượng báo hiếu của Phật giáo vô cùng sâu xa và rộng lớn: từ một đơn vị nhỏ của gia đình là cha mẹ ruột, có thể mở rộng đến vô tận thời gian và vô tận không gian.
Về phương thức báo hiếu, Phật giáo không chỉ giáo dục người con việc chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ về mặt vật chất mà còn đặt nặng về mặt tinh thần. Ngay ở phương diện tinh thần, cũng không chỉ giới hạn trong việc làm vui lòng, hãnh diện cha mẹ bằng những thành tựu cá nhân hay thành tựu của gia đình tộc họ, mà còn nhấn mạnh về việc phải làm sao để cha mẹ có được chánh kiến, hiểu được nhân quả, biết tu tập và gieo trồng thiện nghiệp, sống an vui trong đời hiện tại, không bị đọa lạc trầm luân ở những đời sống tương lai.
Về đối tượng báo hiếu, người con Phật không chỉ giới hạn tình thương yêu và hiếu cảm của mình đối với cha mẹ hiện tiền mà còn nhớ nghĩ và thương tưởng đến cha mẹ của nhiều đời kiếp. Hình ảnh đức Phật lạy đống xương khô trong kinh Báo Phụ Mẫu Trọng Ân là một nghĩa cử cao đẹp, cảm động, nhắc nhở chúng ta rằng cha mẹ không phải chỉ có cha mẹ hiện tiền mà còn có trong đời quá khứ và trong đời tương lai; cha mẹ cũng không phải chỉ ở riêng đất nước này, địa phương nọ, mà có thể ở khắp nơi, ở quốc gia này hay quốc gia khác, ở thế giới này hay thế giới khác. Ý niệm này dẫn đến hệ luận rằng "tất cả chúng sanh là cha mẹ." Từ chỗ này, giáo lý nhân thừa bắt đầu bước chân vào Bồ tát thừa, làm nền tảng cho Phật thừa mai sau.
Quanh con có tiếng sụt sùi. Đạo tràng đang yên lặng bỗng chìm trong nước mắt. Hai Phật tử đại diện, xúc động bày tỏ lòng mình bằng những mỹ từ để tưởng nhớ về công ơn cao cả của hai đấng sinh thành. Nhưng con biết, thoát ra ngoài những ngôn từ giới hạn ấy là cả một tấm chân tình không biên giới mà chúng con dành cho Cha cho Mẹ. Mẹ vì ai mà tảo tần hôm sớm. Mẹ vì ai mà một nắng hai sương. Mẹ vì ai mà chịu những đau thưong. Để cuối cùng gởi thân nơi huyệt lạnh. Mẹ là người nâng đỡ con khi trượt ngã trên con đường danh lợi. Mẹ là nơi chốn quay về khi con bị đời ruồng bỏ đuổi xua. Mẹ sẽ luôn ôm ấp con vào lòng mỗi lúc con cô đơn buồn tủi. Mẹ là tất cả của đời con. Mẹ là vị Bồ Tát đầu tiên khi con vừa cất tiếng khóc chào đời. Mẹ là nải chuối buồng cau, Mẹ là dòng suối dịu hiền, Mẹ là ánh trăng dịu ngọt những đêm rằm...Còn Ba" Ba là gì giữa cuộc đời con và Mẹ"
“Và nếu người ta hỏi đâu là hình ảnh, là biểu tượng người cha trong Ngày Báo Hiếu, con sẽ nói nhỏ với họ rằng, khi mẹ là hoa hồng đỏ thắm thương yêu hay là hoa trắng thanh cao tỏa hương ở một cõi lạ nào khác thì ba vẫn luôn là lá, là cành, là cuống hoa nâng đỡ bước chân mẹ.
Sự có mặt của ba trên cuộc đời không phải là để góp hương góp sắc cho vườn hoa thương yêu, mà để bảo bọc, che chở và làm phát tiết những đóa hồng xinh đẹp trong vườn hoa thương yêu ấy. Nơi nào có mẹ thì nơi đó có ba, cũng như nơi nào có hoa thì nơi đó có lá vậy. Ba ẩn đàng sau, ba nép phía dưới, lặng lẽ, mờ nhạt, nhưng là tất cả tinh hoa tiếp sức cho nguồn hạnh phúc của mẹ, mà cũng là tất cả ý nghĩa cao đẹp cho mạch sống đời con...”
Không xúc động được không với những điều đẹp đẽ cao quý ấy" Không khóc được không khi quanh con tràn ngập một tình thương trọn vẹn"
“Một bông hồng cho em. Một bông hồng cho anh. Và một bông hồng cho những ai, cho những ai đang còn Mẹ, đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn...” Đôi tay con lúng túng khi gỡ miếng băng dán trên đoá hồng để đính vào ngực áo. Nước mắt đã chảy thành dòng, nhạt nhòa mờ ảo. Thời gian không làm nhạt phai tình mẫu tử, thế nên tác phẩm của Thầy Nhất Hạnh viết đã gần nửa thế kỷ qua, càng làm cho những dòng nước mắt chảy nhanh hơn. Tiếng sụt sùi đè nén lúc nãy mặc nhiên biến thành những tiếng nấc ngon lành. Bên cạnh tiếng khóc vui sướng của những người con đang hãnh diện ép bên tim mình đoá hồng màu đỏ thắm, là những tiếng nức nở của biết bao đoá hồng trắng trên lòng ngực đang thổn thức. Và, con cũng nghe trong đám đông ấy có tiếng khóc buồn tủi vì không may mắn được Mẹ thương yêu như những người con hạnh phúc khác. Có cả tiếng khóc hối hận cho một lỗi lầm nào đó đã phạm phải với Cha với Mẹ, dù vô tình hay cố ý, dù đã được tấm lòng từ bi của Mẹ của Cha thứ tha...Cung bậc của tiếng khóc dâng trào hoà cùng âm huỏng của hai b
ản nhạc Vu lan sẽ là món quà ý nghĩa nhất mà đạo tràng hôm nay kính cẩn cúng dường các đấng sinh thành. Nước mắt rơi xuống giờ đây không chỉ cho riêng ai, mà khắp không gian hạn hẹp nơi bốn bức tường bỗng trở thành một khung trời cao rộng, để những giọt nước mắt ấy dù hạnh phúc hay khổ đau sẽ cùng hòa nhau xuôi về biển cả.
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ.
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha.
Mùa Vu Lan 2008, Diệu Trang.
(Pháp Vân, http://www.phapvan.ca)