Hôm nay,  

Thuyền To Sóng Cả... Cho Thuyền Thấp

18/08/200700:00:00(Xem: 8362)

Nạn nhân trận bão sub-prime là... Âu Châu...

Nhiều biến động tài chánh có thể làm thiên hạ phá sản mà vẫn không làm lệch quan hệ quốc tế. Ngược lại, một cơn chấn động nhỏ ở xứ này lại có thể đảo lộn trật tự xứ khác và gây khủng hoảng toàn cầu trong nhiều năm liền.

Khác nhau ở chỗ nào"
Trên đà hồ hởi của ngành đầu tư vào các cao ốc thương mại, Hoa Kỳ bị vụ khủng hoảng quỹ tiết kiệm và tín dụng trong các năm 1986-1989 thời Ronald Reagan làm tổng thống (vụ "savings and loan"). Trên đà hồ hởi của cuộc cách mạng tín học, vụ bể bóng đầu tư cổ phiếu "cao kỹ" - hitech - năm 2000 có mở màn cho một đợt suy trầm nhẹ của kinh tế Mỹ từ đầu năm 2001. Vụ các tổ hợp bất lương của Mỹ bị phá sản hàng loạt cuối năm 2001 (vụ Enron hay WorldCom) là một tai họa khác nhồi theo đợt khủng bố 9-11 vào tháng Chín năm 2001.

Dù có làm nhiều người Mỹ phá sản, nhiều doanh nghiệp khánh tận, cả ba biến động tài chánh ấy (S&L, dot.com và Enron) đều không gây sóng gió cho thế giới, để trở thành biến cố lớn về địa dư chính trị cho toàn cầu.

Ngược lại, vụ bể bóng đầu tư tại Nhật Bản từ năm 1990 hay vụ khủng hoảng Đông Á năm 1997-1998 lại gây biến động toàn cầu.

Trong 15 năm liền - 1991-2005- khủng hoảng tại Nhật đã nhận chìm nền kinh tế thứ nhì thế giới (và thứ nhất Đông Á) vào tám đợt suy thoái và tạo khoảng trống cho sự lớn mạnh của kinh tế Trung Quốc - cho đến ngày nay. Vụ khủng hoảng Đông Á lan vào Liên bang Nga năm 1998 khiến siêu cường số hai của thời Chiến tranh lạnh vỡ nợ. Trận phá sản ấy thực tế chấm dứt vai trò quốc tế của Nga - và chôn cất Chiến tranh lạnh trong gạch vụn - trước khi Vladimir Putin xuất hiện để gồm thâu các mảnh vụn của Nga vào một mối - cho đến ngày nay...

Trong khung cảnh ấy, vụ khủng hoảng sub-prime đang xảy ra tại Mỹ sẽ có ảnh hưởng ra sao"

Trong thời 1986-1989, sản lượng kinh tế Hoa Kỳ ở khoảng 4.500 đến 5.500 tỷ Mỹ kim và vụ khủng hoảng S&L khiến nước Mỹ mất chừng 3% tổng sản lượng GDP trải mỏng trên bốn năm. Ngày nay, sản lượng của nước Mỹ ở vào khoảng 1.400 tỷ Mỹ kim một năm và kích thước các khoản nợ loại sub-prime được ước lượng (tối đa) khoảng 600 tỷ, với số mất mát có thể lên tới từ 100 đến 160 tỷ. Tình trạng thiếu thông tin chính xác về số nợ (sẽ) bị mất này là một vấn đề, và có lẽ là vấn đề chính, nhưng không là đề tài ở đây!

Nếu so sánh, vụ khủng hoảng S&L khiến kinh tế Mỹ bị mất sạch 3% GDP, trong khi vụ sub-prime có thể làm Hoa Kỳ mất chừng 1,2%, tỷ lệ thấp hơn của một nền kinh tế lớn hơn. Nếu Mỹ có mất sạch từ 500 đến 600 tỷ trong mấy năm tới thì mới bằng vụ S&L, vốn dĩ là một trận biến động nhỏ mà đa số người Mỹ đã quên!

Đấy là kích thước của vấn đề, nếu chỉ nhìn vào nước Mỹ.
Thế thì tại sao hàng loạt các thị trường chứng khoán trên thế giới lại bị chấn động liên tục từ đầu tháng Tám vì vụ sub-prime của Mỹ"

Thực ra, cơn chấn động chỉ bắt đầu có kích thước quốc tế từ ngày mùng chín Tháng Tám, khi ngân hàng lớn nhất của Pháp là BNP-Parisbas quyết định ngưng giao dịch ba quỹ đầu tư có quá nhiều loại nợ sub-prime bên trong. Lý do là ngân hàng này không ước tính nổi là sẽ mất bao nhiêu tiền vì loại nợ đó - một nghịch lý về thông tin kinh doanh! Khi chưa rõ tình hình mà có quyết định như vậy, ngân hàng này khiến thị trường hốt hoảng, ở tầm mức quốc tế, từ Pháp lan qua Đức và dội ngược về Mỹ. (Vì vậy mà Thứ Năm 16 vừa qua, nữ Tổng trưởng Kinh tế, Tài chánh và Nhân dụng của Pháp đã tạm ngưng nghỉ hè trở về Paris yêu cầu Tổng giám đốc BNP-Paribas giải trình quyết định của mình!)

Quyết định phong toả ba quỹ đầu tư của BNP-Paribas gây hốt hoảng vì lúc ấy thị trường mới thấy là nhiều ngân hàng Âu châu hay quỹ đầu tư Hoa Kỳ cũng gặp hoàn cảnh mất nợ - mà mất bao nhiêu thì chưa ai biết rõ. Ngay hôm sau (mùng 10 Tháng Tám) các ngân hàng và công ty tài chánh thế giới lập tức hạn chế tài trợ và gây ra nạn khan hiếm tín dụng làm các thị trường chứng khoán bị chao đảo rồi sụt giá. Vì vậy, các ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ, Liên hiệp Âu châu, Úc Đại Lợi và Nhật Bản lật đật bơm thêm tiền mặt (hơn 400 tỷ Mỹ kim tính đến ngày Thứ Sáu) vào kinh tế để trấn an thị trường.

Sáng sớm Thứ Sáu 17, ngân hàng trung ương Mỹ còn đặc biệt hạ lãi suất thế chấp (discount rate) 50 điểm (0,50%) để giảm chi phí vay mượn cho các ngân hàng thương mại khi họ cần thế chấp trái phiếu để nhất thời vay tiền ngân hàng trung ương. Sau khi liên tục can thiệp (bằng cách bơm tiền) vào thị trường tiền tệ, việc Hội đồng Dự trữ Liên bang (ngân hàng trung ương) bất ngờ điều chỉnh lãi suất trước phiên họp định kỳ để quyết định về lãi suất vào ngày 18 tháng Chín cho thấy giới lãnh đạo tiền tệ Hoa Kỳ hết sức quan tâm và muốn tránh một vụ khủng hoảng. Đến cuối phiên giao dịch ngày 17, chỉ số DJIA tăng 233 điểm!

Khi lùi lại để nhìn trên toàn cảnh, người ta thấy ra nhiều chuyện lạ.
Ngày Thứ Ba mùng bảy vừa qua, Ngân hàng Trung ương Mỹ có phiên họp định kỳ của Uỷ ban Tiền tệ và Tín dụng (Ủy ban Liên bang về Thị trường ngỏ - FOMC) mà lại không điều chỉnh lãi suất liên ngân hàng (fed funds rate) như nhiều người chờ đợi. Đây là lãi suất các ngân hàng tính với nhau khi cần vay mượn "qua đêm" - trong ngắn hạn - và là lãi suất căn bản của các loại lãi suất khác trên thị trường tiền tệ. Hạ lãi suất là bơm thêm tiền và nâng lãi suất là tiết giảm khối tiền tệ lưu hành.
Lý do không hạ lãi suất là vì giới lãnh đạo tiền tệ Mỹ cho rằng dù có thuyên giảm thì lạm phát vẫn là nguy cơ đáng chú ý, còn đáng chú ý hơn những giao động tài chánh đã manh nha từ ngày 27 tháng Bảy - chưa đầy 10 ngày sau khi chỉ số Dow Jones vọt lên mức kỷ lục là 14041 điểm. Một là ngân hàng trung ương Mỹ lạc quan thái quá và bị tréo giò vì chuyển động của thị trường. Hai là định chế này vẫn thận trọng để khỏi bật ra tín hiệu gây hốt hoảng chứ cũng biết là sẽ có lúc phải hạ lãi suất, có thể là vào ngày 18 sắp tới.

Mà sở dĩ phải can thiệp cấp tốc vì làn sóng sub-prime của Mỹ có thể nhận chìm nhiều con tầu tài chánh Âu-Á.

Chúng ta trở lại vấn đề địa dư chính trị và thế lực của Hoa Kỳ!


Khi Tổng thống George W. Bush rồi Tổng trưởng Tài chánh Hank Paulson phải đích thân nói chuyện với báo chí, cả hai đều có một nhu cầu: công nhận là kinh tế tài chánh đang có vấn đề - để khỏi bị tội vô tâm lơ đễnh như trong vụ Katrina năm kia. Nhưng đồng thời xác nhận là vấn đề này không nguy kịch đến độ gây ra khủng hoảng cho kinh tế Hoa Kỳ. Nghĩa là chính trường phải trấn an thị trường vì sợ bị thị trường quật ngã.

Vốn có ác cảm kinh niên với ông Bush, truyền thông Mỹ bèn mỉa mai là tổng thống vừa trấn an thị trường hôm mùng tám thì cổ phiếu Dow Jones (DJIA) sụt mất hơn 300 điểm! Điều ấy chỉ chứng tỏ thiên kiến và trình độ thiếu chuyên nghiệp của truyền thông mà thôi.

Về căn bản, nền kinh tế Hoa Kỳ có sự sung mãn đáng kể và thừa tiềm lực vượt qua được cơn sóng gió tài chánh đang xảy ra. Hãy nhớ lại vụ S&L! Tổng trưởng Paulson không nói sai vì ông từng chỉ huy doanh nghiệp tài chánh Goldman Sachs trong nhiều thập niên trước khi tham gia nội các một năm trước. Từ cuối tháng Bảy, ông Paulson thường xuyên tham khảo ý kiến Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ Ben Bernanke và nhân viên của ông liên tục tiếp xúc với giới buôn bán chứng phiếu để bắt mạch thị trường và tìm cách ứng phó.

Họ biết nội dung vấn đề hơn truyền thông có thể nghĩ hay xuyên tạc - và vì vậy gây lầm lạc cho dư luận.

Nội dung vấn đề là từ năm 1998 đến nay, 2007, giá nhà tại Mỹ đã tăng trung bình chừng 50%. Họ biết là đà hồ hởi nhờ sự thịnh đạt trong chu kỳ 2001-2005 sẽ có lúc khựng, thị trường phải có lúc điều chỉnh, sụt giá chừng 10%. Nếu sụt quá 30% từ đỉnh cao vào đầu năm 2006, thì mới có thể gây ra khủng hoảng. Là chuyện chưa xảy ra.
Khi thị trường gia cư điều chỉnh như hiện nay thì các nghiệp vụ đầu tư và cho vay theo kiểu bấp bênh vì hồ hởi sảng - sub-prime chẳng hạn - sẽ bị giao động trước, là chuyện đang xảy ra, làm các tay đầu tư bất cẩn sẽ bị thiệt hại nhất. Nhưng ngay cả trong giả thuyết bi quan - Mỹ mất toi 600 tỷ - thiệt hại ấy vẫn không làm kinh tế Mỹ sụp đổ hay bị khủng hoảng được.

Đó là chuyện Mỹ. Trong cùng giai đoạn 10 năm qua thì bên Âu châu, giá nhà tại Hoà Lan, Thụy Điển và Pháp đã tăng 75%: trái bóng gia cư của ba xứ này còn căng mạnh hơn bóng Mỹ! Tại Tây Ban Nha (Spain), Ireland và Anh Quốc, giá nhà còn tăng gấp đôi - 100% trong cùng giai đoạn. Mà không chỉ có Hoa Kỳ mới tham lam vét khách bình dân để cho vay theo kiểu sub-prime đầy rủi ro. Nhiều nước Âu châu có chủ đích hữu sản hoá gia cư cho dân nghèo với loại tín dụng ưu đãi mà rủi ro này.

Khi trái bóng căng phồng mà không xì thì có thể bể. Đó là trường hợp của nhiều nước Âu Châu, còn nguy ngập hơn hoàn cảnh Hoa Kỳ.

Nếu điều ấy xảy ra, tình hình sẽ ra sao"
Theo thống kê của khối OECD mới được công bố hôm 14 vừa qua thì, quy ra toàn năm tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ trong quý hai (Q2, từ tháng Tư đến tháng Sáu năm nay) ở khoảng 3,4% một năm. Đây là tốc độ cao nhất, gần gấp đôi Âu châu: hai đầu máy Pháp và Đức đạt 1,6%, Ý Đại Lợi chừng 1,8% và toàn khối Euro - các nước dùng chung đơn vị tiền tệ Euro - đạt tốc độ trung bình là 1,4%. Với tỷ lệ thất nghiệp cao hơn nước Mỹ.

Khi các thị trường bị giao động, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, kinh tế tất nhiên sẽ bị ảnh hưởng, mạnh hay yếu là tùy hiện trạng ngày nay. Tại Âu châu, hiện trạng ấy là một tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ cuối năm 2004. Nếu khối Euro lại bị chấn động vì nạn sub-prime của Mỹ, tình hình sản xuất và thất nghiệp nơi đây sẽ bị điêu đứng nặng hơn Mỹ, vì trái bóng gia cư căng phồng hơn trên một tấm nệm mỏng hơn nệm Mỹ!

Đó là chuyện kinh tế. Sang chuyện chánh sách thì từ ít lâu nay, Âu châu đã thoát cơn ảo giác bao cấp của các chính quyền thiên tả và xu hướng trung hữu đang thắng thế ở nhiều quốc gia, đứng đầu là Đức và Pháp. Các chính quyền Nicolas Sarkozy tại Paris hay Angela Merkel tại Berlin đang cố chuyển hướng để thoát khỏi tình trạng bao cấp đầy tốn kém hầu kịp thời giải quyết một vấn đề đang đè nặng như một trái bom nổ chậm, là quỹ hưu bổng cho một xã hội bị lão hoá - có quá nhiều người cao niên trong lực lượng sản xuất.

Nếu kinh tế tăng trưởng tốt đẹp và sức khoẻ của con bệnh có vẻ khả quan thì liều thuốc khử bệnh bao cấp ít bị công phạt. Dân chúng, từ các nghiệp đoàn đến thành phần sống nhờ hưu bổng, có thể vui vẻ uống liều thuốc đắng. Nhưng nếu trận bão sub-prime của Mỹ lại khiến con bệnh Âu châu bị chóng mặt điêu đứng, ngần ấy biện pháp cải tổ sẽ gây công phạt nặng. Và châm ngòi cho biểu tình phản đối!

Trên đà thắng lợi kinh tế và chính trị của bà Angela Merkel, liên minh cầm quyền giữa đảng CDU với đảng Dân chủ Xã hội của Đức có thể bị vụ sub-prime phá vỡ. Sức ủng hộ đến gần 2/3 của dân Pháp cho Chính quyền Sarkozy cũng có thể bị vụ sub-prime của Mỹ gây khốn đốn. Kế hoạch cải tổ thuế khoá và chánh sách lao động Pháp có thể bị chống đối ngoài đường phố.

Việc cải cách để chuyển hướng kinh tế tại đây có thể bị vụ sub-prime của Mỹ chặn đứng nếu làm kinh tế Âu châu sa sút. Và cánh tả, với xu hướng bao cấp và bảo hộ mậu dịch, sẽ có cơ hội hồi sinh. Đồng Euro sẽ mất ưu thế so với tiền Mỹ, Liên hiệp Âu châu cũng vậy! Nghĩa là các chính quyền "thân Mỹ" nhất từ cả chục năm nay đang lên như diều gặp gió thì bị vụ sub-prime cắt dây.

Cho nên, Hoa Kỳ có thể hắt hơi rồi giải cảm bằng một số biện pháp tài chánh tiền tệ trong những ngày tháng tới, nhưng Âu châu sẽ còn say sóng rất lâu vì dư ba của thị trường sub-prime Hoa Kỳ. Như một con thuyền lớn chạy trên đại dương, kinh tế Mỹ gây nên những làn sóng lớn có thể nhận chìm những con thuyền nhỏ, của đồng minh hay không.

Làn sóng sub-prime tại Mỹ có thể làm các nước Âu châu điêu đứng trong nhiều năm liền, sau khi đánh bể trái bóng gia cư Âu châu và gây họa cho chách sách cải cách kinh tế xã hội của các chính quyền có thiện cảm nhất với đường lối kinh tế tự do kiểu Mỹ!

Đừng hỏi giới đầu tư hay tài trợ địa ốc Hoa Kỳ hay trong khu phố của mình về những hậu quả bất ngờ ấy.

Bảo rằng Chính quyền Bush vô tâm thì có thể sai. Nhưng bảo rằng Mỹ hữu ý để gây hoạ cho khối Euro thì chưa hẳn là đúng. Nhưng là giả thuyết hấp dẫn cho những người ghét Mỹ hay sợ Mỹ kinh niên.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.