Hôm nay,  

Quan Hệ Mỹ - Trung - Việt Sau Hội Nghị APEC 14

11/25/200600:00:00(View: 10762)

Quan Hệ Mỹ - Trung - Việt Sau Hội Nghị APEC 14

Tổng Thống Bush và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đến Việt Nam tham dự Hội Nghị APEC, nhưng cả hai đã có những sắp xếp khác, không liên hệ gì đến nội dung bàn thảo của 21 nguyên thủ trong Hội Nghị APEC lần thứ 14 này. Chính vì lý do đó mà người ta thấy là các cơ quan truyền thông của Hà Nội đã loan tải các cuộc đón tiếp và gặp gỡ giữa lãnh đạo Cộng sản Việt Nam với Tổng Thống Bush và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nhiều hơn so với 18 vị nguyên thủ còn lại đã đến Hà Nội từ ngày 17 đến 19 tháng 11 vừa qua. Tại sao"

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào viếng thăm Hà Nội một cách chính thức từ ngày 15 đến 17 tháng 11. Nhưng trước khi họ Đào đến Hà Nội, Đường Gia Triền, Bộ trưởng ngoại giao đã đến Hà Nội trước, từ ngày 11 tháng 11, để thuyết phục lãnh đạo Cộng sản Việt Nam chấp thuận sự đề nghị của Hồ Cẩm Đào, thành lập Ủy ban chỉ đạo quan hệ song phương. Việc thành lập Ủy ban này đã được Bắc Kinh trao bản dự thảo cho Cộng sản Việt Nam hồi tháng 10 với dự kiến là hai phía sẽ cùng ký nghị định thành lập nhân chuyến viếng thăm của Hồ Cẩm Đào. Mục tiêu của Ủy ban chỉ đạo này là để điều hướng sự hợp tác của hai phía trên các quan hệ chiến lược. Do sự thúc đẩy của Hồ Cẩm Đào, Cộng sản Việt Nam đã phải đồng ký nghị định thành lập ủy ban với Trung Quốc vào ngày 16 tháng 11, cử Phạm Gia Khiêm, phó thủ tướng làm Chủ tịch Ủy ban về phía Việt Nam trong khi Đường Gia Triền, làm chủ tịch phía Trung Quốc. Sở dĩ Hồ Cẩm Đào đẩy Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận việc thành lập Ủy ban chỉ đạo ngay vào thời điểm tháng 11 này vì muốn chứng tỏ với Hoa Kỳ rằng Hà Nội vẫn còn trong vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh.

Trong cuộc gặp gỡ với Nông Đức Mạnh và Nguyễn Minh Triết, Hồ Cẩm Đào còn đưa ra bốn đề nghị cho phía Cộng sản Việt Nam suy nghĩ để xúc tiến trong thời gian tới. Bốn đề nghị gồm: 1/Tăng cường hợp tác kinh tế, thuơng mại giữa hai nước; 2/Áp dụng biện pháp mở rộng quy mô thương mại, cải thiện cơ cấu, nâng cao trình độ thương mại và cân đối thương mại hai chiều lên 15 tỷ Mỹ Kim vào năm 2010; 3/Tăng cường hợp tác về một số dự án lớn, trong đó năm dự án ký ngày 16 tháng 11 với tổng trị giá hơn 3,6 tỷ Mỹ Kim; 4/Tăng cường hợp tác kinh tế đa phương, trong đó Trung Quốc sẵn sàng chia sẽ với Cộng sản Việt Nam kinh nghiệm đối phó những thách thức khi gia nhập WTO. Những đề nghị của Hồ Cẩm Đào nói trên và việc thiết lập Ủy ban Chỉ đạo song phương giữa hai chính phủ cho thấy là lãnh đạo Bắc Kinh không muốn buông Việt Nam cho Hoa Kỳ mà cố gắng lôi kéo Cộng sản Việt Nam ngã về phía Trung Quốc trên cả hai lãnh vực kinh tế và quan hệ chiến lược. Những nội dung hợp tác được đưa ra từ Hồ Cẩm Đào cho thấy là Bắc Kinh đã theo dõi rất kỹ các trao đổi giữa Hà Nội với Hoa Thịnh Đốn và không muốn Hà Nội tiếp cận quá gần với Mỹ.

Trong khi đó, trước khi đến viếng thăm Việt Nam từ ngày 17 đến 19 tháng 11, Tổng Thống Bush đã cử Ngoại Trưởng Rise đến Việt Nam cùng lúc Hồ Cẩm Đào đặt chân đến Hà Nội và để cho Cố vấn an ninh quốc gia Stephen Hadley trực tiếp sắp xếp nội dung trao đổi giữa Tổng Thống Bush và Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh thay vì giao cho bà Rise. Sự kiện này cho thấy là bộ tham mưu của Tổng thống Bush đã có những tính toán hai mặt. Một mặt thì trước khi bà Rise lên đường sang Việt Nam, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố bỏ tên Cộng sản Việt Nam ra khỏi danh sách những quốc gia đáng quan tâm (CPC), cũng như thúc đẩy Hạ viện thông qua quy chế PNTR, để đáp lại sự thỏa thuận của Hà Nội trong việc chấp nhận ba yêu sách mà phía Hoa Kỳ đã đưa ra. Đó là:

1/Cộng sản Việt Nam chấp thuận cho Hoa Kỳ giám sát nguồn nhiên liệu của nhà máy hạt nhân tại Đà Lạt để tránh một Bắc Triều Tiên thứ hai tại Đông Nam Á;

2/Tham gia vào hiệp định hợp tác nhằm chận đứng việc phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt;

3/Chấp thuận cho các toán thiện nguyện hòa bình (Peace Corps) của Hoa Kỳ được hoạt động tại Việt Nam. Những điều kiện này rất là bình thường trong quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ với nhiều quốc gia nhưng lại trở thành vấn đề nhạy cảm và nhiều lần Hà Nội lên tiếng từ chối với lý cớ 'tình hình chưa thuận lợi'.

Khi gặp trực tiếp lãnh đạo Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội, Tổng thống Bush đã đề cập về nhu cầu tăng cường hợp tác giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn trong việc giải quyết các mối quan tâm khu vực và toàn cầu. Phía Hoa Kỳ đã đưa ra điều kiện: sẵn sàng viện trợ cho mọi phát triển của Việt Nam đồng thời thúc đẩy đầu tư trọn gói về kinh tế; ngược lại, Cộng sản Việt Nam phải chấp thuận trở thành một đối tác chiến lược với Hoa Kỳ mà cụ thể là sẽ đáp ứng hai yêu cầu: Thứ nhất là tăng cường hợp tác quân sự với Hoa Kỳ trên lãnh vực hải quân và bộ binh. Thứ hai là đồng ý để cho Hoa Kỳ thuê lại một hải cảng dùng làm hậu cần cho các tàu chiến của Mỹ ghé vào tu sửa hay mua tiếp liệu khi di chuyển trên vùng Biển Đông để tiếp tế cho chiến trường Trung Đông. Theo nhiều tin tức tổng hợp thì Hoa Kỳ đang thương lượng với Hà Nội để thuê một hải cảng nằm về phía Bắc cảng Cam Ranh, thuộc miền Trung Việt Nam; nhưng Cộng sản Việt Nam đang do dự vì sợ Trung Quốc phật lòng. Thật ra thì việc cho thuê một hải cảng để cho quân đội ngoại quốc sử dụng làm 'hậu cần' không phải là điều cấm kỵ đối với một quốc gia có chủ quyền và độc lập; nhưng đối với hoàn cảnh của Cộng sản Việt Nam hiện nay, quả là vấn đề khá tế nhị, khi đàn anh phương Bắc cũng đang muốn thuê hải cảng Cam Ranh.

Những nỗ lực của Tổng Thống Bush và Chủ tịch Hà Cẩm Đào nói trên cho thấy là cả hai chính quyền Hoa Kỳ và Trung Quốc đều muốn thúc đẩy nhanh chóng mối quan hệ chiến lược với những toan tính lôi kéo Cộng sản Việt Nam đi vào trong vòng ảnh hưởng của mỗi phía. Nói cách khác, những hợp tác thương mại hay những viện trợ kinh tế cho Việt Nam, được đưa ra từ miệng của ông Hồ Cẩm Đào hay từ Tổng Thống Bush đều giống nhau ở chỗ là nhắm vào việc thúc đẩy hợp tác quân sự để mở rộng thế đối tác an ninh chiến lược trong vùng. Cả hai đã coi vấn đề hợp tác kinh tế với Cộng sản Việt Nam như là 'cây gậy và củ cà rốt', nhằm thúc đẩy sự hợp tác của Cộng sản Việt Nam cho những mục tiêu riêng của Hoa Thịnh Đốn hay Bắc Kinh tại vùng Đông Nam Á. Hiểu rõ vấn đề này, ta thấy là tình hình chính trị tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ rất phức tạp. Các lực lượng đấu tranh không cộng sản sẽ không chỉ đối đầu với đảng Cộng sản Việt Nam để giành lại tự do dân chủ cho Việt Nam mà còn phải đối phó trước các toan tính của Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh trong việc sử dụng Hà Nội cho những nhu cầu chiến lược riêng tư. Những toan tính này chắc chắn sẽ đi ngược lại những khát vọng của dân tộc Việt Nam mà chúng ta không thể im lặng.

Tóm lại, quan hệ giữa Cộng sản Việt Nam với Hoa Kỳ và Trung Quốc sau APEC 14 sẽ rất phức tạp vì sự cạnh tranh tạo ảnh hưởng của Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn lên những bước đi chập chững của Hà Nội trong WTO. Với bản chất tham lam, luôn luôn dựa vào thế lực bên ngoài để 'ổn định tình hình nội bộ' người ta thấy ngay là Cộng sản Việt Nam sẽ rất vất vả đối phó nhiều áp lực, đặc biệt là những áp lực bất mãn của dân chúng ngày một rõ nét hơn trong thời gian tới.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.