Hôm nay,  

Nội Chiến Tại Iraq

02/12/200600:00:00(Xem: 10763)

Nội Chiến Tại Iraq

Khi nói rằng Iraq đang bị nội chiến, người ta là lầm lẫn tới hai lần. Về ý nghĩa và về ngụ ý…

Tuần qua, dư luận chống Bush được tăng viện với lời phát biểu của Tướng Colin Powell. Viên Ngoại trưởng cũ của ông Bush nói rằng Iraq bị nội chiến về thực tế, và lời phát biểu của ông lập tức bị chính quyền Bush phủ nhận.

Đối với công luận, cuộc tranh luận về việc "Iraq có bị nội chiến hay không hàm ý" là tình hình đã nguy ngập vô phương cứu chữa - ngược với lý luận của chính quyền Bush - và vì là nội chiến giữa các phe Iraq với nhau, nước Mỹ chẳng nên can thiệp làm lính Mỹ mất mạng. Chi bằng nên rút. Nhanh chậm, nhiều ít và có thời hạn hay không là chuyện sẽ còn thảo luận.

Điều ấy rất sai, trên cả hai mặt.

Sau khi lật đổ Tổng thống Diệm, thì đầu năm 1965, Hoa Kỳ đã xấn xổ đổ quân vào Việt Nam trước sự bàng hoàng của Chính phủ Phan Huy Quát tại Việt Nam lẫn Toà Đại sứ Mỹ tại Saigon và của cả Nội các Lyndon Johnson tại Hoa Kỳ.

Từ đấy, cuộc chiến đã được Mỹ hoá, trước tiên là vì tiến hành theo phương cách của Mỹ. Thay vì yểm trợ Việt Nam mà thôi, như Chính quyền Ngô Đình Diện yêu cầu, người Mỹ đã trực tiếp điều khiển cuộc chiến. Lý do là để bảo vệ tiền đồn của thế giới tự do, lý cớ là vì các chính quyền nối tiếp sau khi ông Diệm bị sát hại đã liên tục đảo chánh nhau nên không thể ngăn chặn được cuộc xâm lăng của miền Bắc để bảo vệ tiền đồn ấy.

Ban đầu, việc can thiệp được sự ủng hộ đông đảo của các phần tử ưu tú của nước Mỹ, của đảng Dân chủ đứng sau ông Johnson và cả đảng Cộng hoà, vốn có lập trường chống cộng rất dứt khoát.

Thế rồi khi cuộc chiến không ngã ngũ theo những dự tính của Hoa Kỳ, trí thức, truyền thông và các chính trị gia Mỹ đổi giọng: Đây là một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam, chẳng có lý do gì để Hoa Kỳ tiếp tục can thiệp. Lý luận ấy mở màn cho việc triệt thoái, được che dấu sau hỏa mù hoà đàm và kết thúc thành chuyện tháo chạy khi Tổng thống Richard Nixon bị tê liệt và phải từ chức vì vụ Watergate.

Ngày hôm nay, sự việc tình hình Iraq được trình bày thành "nội chiến" cũng có tác dụng tương tự, một lý cớ tháo chạy. Hoặc giỏi lắm thì tháo lui chầm chậm, nhưng không chạy.

Cuộc chiến Việt Nam không là một cuộc nội chiến.

Chính quyền miền Nam không tham gia chiến tranh để làm thay đổi thể chế chính trị tại miền Bắc mà chỉ để chống đỡ. Nếu hoà thì coi như đã thắng vì vậy tất yếu là thua. Ngược lại, được sự yểm trợ của khối cộng sản, Chính quyền miền Bắc muốn đánh sập chế độ chính trị tại Sàigòn để đưa cả hai miền vào xã hội chủ nghĩa. Với bản chất ấy, cuộc chiến Việt Nam không là nội chiến giữa hai miền mà bị lồng trong việc đối đầu có võ trang giữa hai hình thái sinh hoạt cộng sản và tự do.

Nếu nhìn cho đúng thì ngay cả cuộc Nội chiến tại Hoa Kỳ cũng không hẳn là "nội chiến". Miền Nam thiên về nông nghiệp và chủ trương duy trì chế độ nô lệ cũng không đòi tiêu diệt miền Bắc thiên về công nghiệp để từ đó lãnh đạo cả nước theo quan điểm của mình. Họ muốn được để nguyên, nếu không được thì ly khai ra khỏi chế độ cai trị của miền Bắc, y như Hoa Kỳ đã ly khai và giành thế độc lập với chế độ cai trị của Đế quốc Anh. 

Khi Hoa Kỳ khai mở chiến dịch Iraq, Chính quyền Bush có thể chỉ muốn lật đổ một chế độ hung đồ nhất trong thế giới Hồi giáo hầu các nước Hồi giáo khác lấy đó làm gương để không dung chứa các xu hướng Hồi giáo cực đoan, nhân danh Thánh chiến mà khuynh đảo khối Hồi giáo và lật đổ các chế độ Hồi giáo ôn hoà để lập ra một Đế quốc Hồi giáo theo giáo luật cực đoan nhất của đạo Hồi. Việc lật đổ Saddam Hussein hoàn thành quá mau khiến Chính quyền Bush say đòn mà không nhìn ra những lực ly tâm tiềm ẩn bên trong Iraq và vai trò khuấy động của Iran, một cường quốc đối thủ của Iraq.

Việc bình định Iraq từ đấy tuột xích dần vì một chuỗi sai lầm khác.

Dựa vào sự hợp tác với phe Shia đa số, nạn nhân của chế độ Saddam Hussein thuộc phe Sunni, Hoa Kỳ muốn vừa đánh vừa nhử các lực lượng Sunni chống Mỹ.

Các lực lượng này gồm có tàn dư của chế độ Saddam và các nhóm dân quân ái quốc không chấp nhận sự can thiệp của Mỹ. Lý do của chiến lược vừa đánh vừa đàm ấy gồm hai mặt. Thứ nhất là cô lập các nhóm khủng bố Thánh chiến (và al-Qaeda) mai phục trong cộng đồng Sunni và thứ hai kêu gọi dân Sunni tham gia chính quyền liên hiệp với hai phe còn lại là Shia và Kurd.

Mục tiêu ấy phần nào thành công khi dân Sunni tham gia bầu cử ngày một đông hơn trong ba cuộc bầu cử năm 2005 và cao điểm là giữa năm nay, khi các lãnh tụ Sunni "hy sinh" thủ lãnh al-Qaeda tại Iraq là Abu Musab al-Zarqawi và chấp nhận hợp tác với chính quyền của Thủ tướng Nouri al-Malaki.

Đấy là lúc đáng lẽ Chính quyền Bush phải nhân đà thắng lợi cho phép Tổng trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld về hưu theo lời yêu cầu của ông ta. Tổng thống Bush không làm như vậy là điều sai lầm và càng sai lầm nữa khi lập tức cách chức ông Rumsfeld ngay sau cuộc bầu cử tệ hại cho đảng Cộng hoà và tư thế của ông. Ông mặc nhiên chứng tỏ là mình hết quyền chủ động khi tình hình đang đến hồi nguy ngập nhất.

Nguy ngập vì Chính quyền Bush không nhìn ra rằng ngay trên cao điểm tháng Sáu, các nhóm khủng bố trà trộn trong cộng đồng Sunni đã châm ngòi cho mâu thuẫn sinh tử giữa hai phe Sunni và Shia. Kế tiếp, họ cũng không nhìn ra là, đang bị Iran lũng đoạn mạnh bên trong, các lãnh tụ Shia cũng không hài lòng với việc Hoa Kỳ hợp tác khắng khít hơn với phe Sunni và muốn giành thêm quyền lợi kinh tế, chủ yếu là dầu khí, cho dân Sunni. Và quan trọng hơn cả, họ không nhìn thấy là sự lúng túng của Hoa Kỳ tại Iraq là một nguồn cổ võ, một cơ hội bằng vàng cho các lực lượng hay quốc gia Hồi giáo chống Mỹ. Vì vậy lực lượng Hezbollah tại Lebanon lập tức khiêu khích Israel và phá hoại nền dân chủ non yếu tại Beirut, với sũ yểm trợ ngầm của Syria và Iran.

Kết quả là xung đột và bạo động bùng nổ liên tục giữa hai phe Sunni và Shia, với sự tiếp sức của khủng bố al-Qaeda trong phe Sunni và của các nhóm võ trang do Iran tiếp vận bên phe Shia và Lebanon đang mấp mé bên bờ khủng hoảng.

Tình hình Iraq vì vậy không đơn giản là nội chiến giữa hai lực lượng võ trang cùng chung một tổ quốc hay lịch sử là Sunni và Shia để giành quyền lãnh đạo cả nước. Nó là chiến tranh phá hoại của khủng bố Thánh chiến và al-Qaeda, chiến tranh khuynh đảo của Iran để khống chế Iraq, lồng trong những mâu thuẫn về tôn giáo giữa hai hệ phái Sunni và Shia. Và bên trong phe Shia, nhiều giáo phái võ trang cũng không muốn tự giải giới để sát nhập vào bộ máy an ninh và quân sự của chính quyền al-Malaki.

Nói cách khác, đây là vùng oanh kích tự do của bất cứ ai có võ khí. Nó kinh hoàng, toàn diện và hỗn loạn hơn cảnh nội chiến giữa hai lực lượng võ trang đại diện cho hai hình thái cai trị khác nhau của một quốc gia.

Khi bảo rằng Iraq bị nội chiến để có lý cớ rút lui trong danh dự, giới lãnh đạo chính trị và truyền thông Mỹ chỉ tái diễn tiền lệ nhục nhã của nước Mỹ tại Việt Nam.

Nhưng lần này, Hoa Kỳ không thể rút được vì sẽ để lại một thùng thuốc súng trong tầm tay al-Qaeda, các nhóm Sunni và Shia cực đoan nhất và để lại một thao trường cho Iran lũng đoạn và khống chế toàn khu vực Trung Đông, từ Địa Trung Hải đến Afghanistan. Lebanon sẽ bị nội chiến theo đúng nghĩa và Pakistan sẽ bị đảo chánh liên tục, các chế độ ôn hoà như Saudi Arabia hay Jordan và Egyp sẽ phải hà hơi tiếp sức cho phe Sunni tại Iraq để chặn phe Shia do Iran tiếp viện.

Nghĩa là vùng oanh kích tự do của mọi phe phái sẽ từ Iraq lan rộng khắp nơi và đe dọa sự sống còn của một nước dân chủ duy nhất trong vùng là Israel. So với mối hoạ khi hy sinh miền Nam Việt Nam, lần này, Hoa Kỳ sẽ gặp những thách đố chiến lược. Và sinh tử.

Vì mầm đại chiến có thể bùng nổ từ đó!

Chúng ta phải lòng vòng những chuyện gần xa về ngôn từ và lịch sử để thấy ra sự vô tâm của nhiều người, kể cả Colin Powell, khi giáng một đòn chính trị lên lưng ông Bush. Tháng Giêng năm 2009, ông Bush sẽ về hưu. Từ nay đến đó, các tay súng tại Trung Đông lại rất bận rộn!

Nói chuyện nội chiến Iraq là lạc quan tếu!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.