Hôm nay,  

Iraq Trên Dòng Potomac

24/11/200600:00:00(Xem: 8618)

Iraq Trên Dòng Potomac

Có ai biết lập trường của thủ đô Mỹ về Iraq là gì hay không"

Câu hỏi ấy có thể gây khó chịu. Sự hiểu biết thông thường đều cho thấy đảng Cộng hoà đã thất cử và Chính quyền Bush mất sự ủng hộ của quần chúng do chuyện Iraq. Nhưng, người ta vẫn cần nêu lại câu hỏi: giới lãnh đạo Hoa Kỳ, từ hai chính đảng qua đến các lãnh vực khác - tôn giáo, kinh doanh, hay nghiệp đoàn - hiện muốn gì tại Iraq"

Chúng ta không rõ. Trong khi cả nước - nhất là truyền thông - bàn tán sâu rộng về chiến tranh Iraq, người ta không đào đâu ra một lập trường mạch lạc hoặc lý luận thuần nhất về lẽ chiến hay hoà ở ngay trung tâm Hoa Kỳ là thủ đô Mỹ, nơi cọ sát sự tác động của mọi trung tâm quyền lực.

Lý do có thể là vì Chính quyền Bush đã thu hút hoặc phóng chiếu ra lý luận căn bản nhất. Nhưng, điều ấy không giải thích tất cả, và có thể giải thích vì sao Iraq sẽ là biến cố làm thay đổi chính trường Mỹ sâu đậm hơn người ta thường nghĩ.

Đầu tiên, hãy xét tới đảng Dân chủ.

Nền tảng lý luận của đảng này ở dưới cơ sở, trong "quần chúng đảng", đã chuyển dịch về cánh tả và phản chiến. Lãnh đạo của đảng ở trên lại cố bám lấy vị trí trung tả nguyên thủy và tránh bị dán nhãn hiệu "phản chiến" hay tháo chạy.

Trong cuộc bầu cử 2004, đảng Dân chủ chọn ứng viên John Kerry cũng vì lối tính toán nước đôi ấy, chủ hoà mà không ra phản chiến! Sau khi thắng cử, đảng này cũng đẩy Dân biểu chủ hoà John Murtha ra biên và đề cử Dân biểu Steny Hoyer của Maryland vào ghế Trưởng khối đa số. Lý lịch tham nhũng của John Murtha - mà truyền thông cố tình bỏ qua không xét hỏi - không giải thích tất cả!

Huống hồ, đảng này đã đẩy Nghị sĩ Joe Lieberman ra ngoài vì ông ủng hộ cuộc chiến Iraq mà cuối cùng, Lieberman lại thắng lớn trong tư thế Độc lập. Đối thủ do đảng này đưa ra tại Connecticut, Ned Lamont, con nhà tỷ phú, thiên tả và phản chiến - tiêu biểu cho xu hướng Dân chủ đáng ghét - đã bị đại bại: lập trường chiến hoà về Iraq không là yếu tố quyết định.

Đây là một nghịch lý rất… hợp lý.

Đảng Dân chủ không muốn trưng bày ra một quan điểm chủ trương rõ rệt về Iraq vì bề nào cũng hốt phiếu phản chiến. Nếu có bày ra lập trường phản chiến quá đáng thì không lấy phiếu được thành phần trung dung ôn hoà bên đảng Cộng hoà. Họ tính rất đúng như kết quả bầu cử cho thấy. Họ chỉ cần đả kích phương thức tiến hành chiến tranh của Chính quyền Bush là đủ ăn tiền. Huống hồ, càng nói nhiều thì càng bị kẹt trong cuộc tổng tuyển cử 2008.

Mà sở dĩ đảng Dân chủ mờ ảo qua sông Potomac và thắng lớn tại Thủ đô trong Quốc hội khoá 110 tới đây vì, ngoài thành phần phản chiến, thì quần chúng của đảng… không mấy quan tâm đến chuyện Iraq.

Quần chúng truyền thống của đảng - là các nhóm đấu tranh cho dân quyền, kể cả quyền phá thai hay hôn nhân đồng tính, là công chức, dân thiểu số, nghiệp đoàn và thành phần bảo vệ môi sinh - đều chia sẻ một ấn tượng chung là ghét Bush nhưng họ theo đuổi những mục tiêu riêng. Họ không cần một chủ trương rõ rệt về Iraq.

Kết cuộc thì đảng Dân chủ tránh không thảo luận trong nội bộ về lẽ tiến thoái tại Iraq và đã thắng lớn nhưng sau đó vẫn chưa có một chủ trương gì về một cuộc chiến đang gây sôi nổi trong cả nước.

Đảng Cộng hoà thực ra cũng chẳng khá hơn.

Đảng này không hỏi giấy đảng Dân chủ, như ông Bush thường hỏi ("Thế kế hoạch của quý vị là gì"") và mặc nhiên để chính quyền Bush là phiến nam châm thu hút mọi thịnh nộ hay ủng hộ của quần chúng. Vì sao lại có hiện tượng kỳ lạ ấy"

Vì chiến lược của ông Bush.

Rút kinh nghiệm thất cử của phụ thân năm 1992, vì lý do kinh tế, ông Bush tiến hành chiến tranh mà không muốn quần chúng phải kề vai chia sẻ gánh nặng. Trong tinh thần ấy, ông hành xử như một vị Tổng thống Texas khác là Lyndon B. Johnson trong cuộc chiến Việt Nam. Ông khai chiến, giảm thuế và không một lần phủ quyết việc tăng chi phi lý của Quốc hội do phe Cộng hoà kiểm soát. Trong cuộc chiến đáng lẽ phải của toàn dân vì mang đặc tính toàn diện, ông Bush phó thác cho và tin tưởng vào quân đội và cơ quan tình báo. Còn mọi chuyện khác ở hậu phương thì vẫn là chuyện thời bình.

Việc gì lãnh đạo đảng Cộng hoà phải tranh luận hoặc thảo luận với Hành pháp về Iraq" Đã thế, ngoài Tổng thống, Phó Tổng thống và hai Tổng trưởng Ngoại giao và Quốc phòng, không thấy một nhân viên nội các nào  của ông Bush nói đến chiến tranh hay hy sinh trong thời chiến.

Điểm đặc biệt nữa là doanh trường, nghiệp đoàn và cả các tôn giáo cũng không có lập trường quan điểm gì rõ rệt về Iraq. Chiến hay hoà, tiến hay thoái, và làm sao giải quyết"… là những câu hỏi không được các thành phần ấy nêu ra, trước nhất là trong nội bộ của mình, sau đó là cho chính quyền Bush. Nếu lãnh đạo các thành phần xã hội ấy mà công khai tranh luận và nói thẳng với Tổng thống, rằng quần chúng của chúng tôi có quan điểm khác, hết ủng hộ Tổng thống trong trận Iraq thì sự thể có lẽ đã khác.

Lần duy nhất họ có phản ứng là hôm mùng bảy vừa qua, khi không thèm đi bầu cho đảng Cộng hoà, hoặc bực bội bước qua bầu cho đảng Dân chủ, và chính quyền Bush bị thất bại mà vẫn không biết lòng dân, hoặc ít ra những thành phần quần chúng đó muốn gì tại Iraq!

Thành phần chủ chiến, những người quan ngại cho nền an ninh của Mỹ hoặc thân nhân các chiến binh Mỹ, đã ủng hộ ông Bush đến tận cùng. Quan điểm của họ là phải cần thời gian mới có kết quả tại Iraq. Nhưng cuối cùng thì họ cũng nản chí. Việc ông Bush chuẩn bị một nhóm nghiên cứu về Iraq, với sự tham dự của giới ngoại giao ôn hoà, thực tiễn và ban tham mưu của ông Bush cha, khiến thành phần chủ chiến thất vọng. Việc ông Bush cách chức Tổng trưởng Rumsfeld càng gây thất vọng nặng hơn. Nếu cần thì sao không làm từ trước khi bầu cử, dù bất công thì cũng còn có lợi!

Họ coi là ông Bush đành thỏa hiệp và hy sinh quyền lợi lâu dài của Hoa Kỳ. Họ buồn bã ở nhà không đi bầu hoặc dồn phiếu cho các ứng viên Dân chủ không chủ trương tháo chạy. Jim Webb hốt phiếu khá nhiều của thành phần này tại Virginia. Và họ hoài nghi về chính trường, y như các thành phần bảo thủ và cực hữu của Pháp đã hoài nghi lập trường của Charles de Gaulle về vụ Algéria.

Kết cuộc thì năm năm sau vụ khủng bố, ba năm sau vụ Iraq, truyền thông và dân Mỹ ở khắp nơi đều nói đến Iraq và tương lai của cuộc chiến chống khủng bố nhưng giới lãnh đạo tại Thủ đô vẫn… một ngày như mọi ngày, thao dợt chính trị cho chân trời 2008. Mà không có một chương trình hành động gì về Iraq khả dĩ những người hữu trách có thể tìm hiểu và phân tách lẽ hơn thua.

May ra, khi nhóm nghiên cứu Iraq Study Group trình bày đề nghị của họ như quăng cục đá xuống mặt sông Potomac, dư luận Thủ đô sẽ có vài ngày bận rộn việc tranh cãi đúng sai. Rồi đâu lại vào đấy!

Không ai có thể ngờ một sự thể kỳ lạ ấy.

Và nếu người ta quen nói như vỉa hè Sàigon thời xưa, rằng "Mỹ nó đã tính thế này, thế nọ", chúng ta có thể hỏi lại: "Mỹ nào""

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.