Hôm nay,  

Bài học từ Ukraine: Đồng minh hay thay đổi, vũ khí hạt nhân lại trường tồn.

14/03/202516:30:00(Xem: 1356)

Nếu Kyiv bị bỏ mặc phải đầu hàng, những người khác sẽ thấy là an ninh bắt nguồn từ quyền lực, không phải từ sự (hứa hẹn) đảm bảo.

CaptureNếu Nga giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Ukraine, sự phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ lan rộng vì các quốc gia sẽ coi vũ khí chứ không phải các thỏa thuận là cách duy nhất để bảo vệ chủ quyền của họ. Hình: Youttube.

 

Ukraine đã từng có kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba trên thế giới. Ngày nay, trong cuộc chiến để sinh tồn của họ lại thiếu vắng sự bảo vệ của những đảm bảo trước đây, từng được dùng để thuyết phục họ giải trừ những vũ khí hạt nhân này.

Số phận của họ gửi đến thế giới một thông điệp lạnh lùng: Trong kỷ nguyên của những lời hứa tan vỡ và những liên minh thay đổi, an ninh không đến từ các hiệp ước và thỏa thuận, mà đến từ quyền lực. Và đối với nhiều quốc gia, quyền lực có nghĩa là vũ khí hạt nhân.

 

Khi Ukraine từ bỏ kho vũ khí nguyên tử và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT Nuclear Nonproliferation Treaty) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân vào năm 1994, họ đã thi hành một phần của Bản ghi nhớ Budapest (Budapest Memorandum), gồm một số các đảm bảo an ninh bởi Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.

Những đảm bảo này nhằm bảo vệ chủ quyền của Kyiv, và biên giới của họ sẽ được tôn trọng.

 

Nhưng khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, những cam kết đó đã chứng tỏ là vô nghĩa. Ukraine thấy mình đơn độc, sự sống còn phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây và nằm trong tay một kẻ thù được trang bị bằng chính những vũ khí mà Kyiv đã giao nộp.

 

Những tác động này không dừng tại Ukraine mà lan rộng.

Trên toàn cầu, các chính phủ đang đánh giá lại ý nghĩa thực sự của các bảo đảm an ninh.

Thủ tướng Đức sắp nhậm chức Friedrich Merz đã ra tín hiệu về ý định tăng mạnh chi tiêu quốc phòng bằng cách thúc đẩy cải cách các quy tắc vay nợ của chính phủ. Ông cũng muốn đàm phán với Pháp và Anh mở rộng phạm vi bảo vệ hạt nhân của họ để bao phủ nhiều khu vực rộng lớn hơn ở Âu châu— một ý tưởng được Tổng thống Pháp Emmanuel Macron ủng hộ. Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk tuần trước cho biết đất nước của ông, nơi có chung đường biên giới với Nga, phải "hướng tới các cơ hội liên quan đến vũ khí hạt nhân".

 

Những thay đổi này không phải không có cơ sở.

Việc Ukraine bị loại khỏi các cuộc đàm phán an ninh quan trọng được tổ chức giữa Hoa Kỳ và Nga tại Ả Rập Xê Út vào tháng trước là sự xác nhận rõ ràng về một sự thật địa chính trị khắc nghiệt: những bên không có đòn bẩy sẽ không được quyết định số phận của chính mình.


Nếu bạn không ngồi tại bàn ăn, bạn đã nằm trong thực đơn.

 

Trong một thế giới mà lòng tin vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ đang dần bị xói mòn, việc Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump rút lui khỏi sự ủng hộ Ukraine đã xác nhận điều mà nhiều người lo sợ: liên minh tùy thuộc điều kiện, nhưng vũ khí hạt nhân thì trường tồn.

 

Trong nhiều thập kỷ, sự đe dọa hạt nhân dựa trên học thuyết “ đảm bảo hủy diệt lẫn nhau”  (MAD Mutual Assured Destruction), một sự cân bằng đen tối nhưng hiệu quả đã ngăn các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân tấn công lẫn nhau. Chỉ với chín quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân — năm quốc gia được Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (Non-Proliferation Treaty NPT)  công nhận, cộng với Ấn Độ, Pakistan, Triều Tiên và Israel (với kho vũ khí được cho là của họ) — một sự cân bằng tinh tế đã được duy trì.

Nhưng khi ngày càng nhiều quốc gia cân nhắc đến việc sở hữu vũ khí hạt nhân, tình hình có nguy cơ trở nên bấp bênh hơn nhiều. NPT có hiệu lực từ năm 1970, được xây dựng trên tiền đề rằng các cường quốc hạt nhân trên thế giới sẽ dần giải trừ vũ khí trong khi ngăn chặn các quốc gia mới sở hữu những vũ khí này. Để đổi lấy việc từ bỏ vũ khí hạt nhân, các quốc gia không sở hữu vũ khí hạt nhân được cho là sẽ nhận được sự đảm bảo an ninh từ các cường quốc lớn hơn — Ukraine là một trường hợp điển hình.

 

Nếu kinh nghiệm của Kyiv cho các quốc gia nhỏ là giải trừ vũ khí chỉ dẫn đến sự dễ bị tổn thương, thì toàn bộ tiền đề của NPT sẽ sụp đổ. Các quốc gia trước đây từng dựa vào các liên minh hoặc thỏa thuận an ninh giờ đây có thể kết luận rằng, sự đảm bảo thực sự duy nhất của họ là khả năng chính họ sở hữu hạt nhân.

Viễn cảnh này không chỉ là lý thuyết. Hàn Quốc — từng hài lòng với việc dựa vào ô dù hạt nhân của Hoa Kỳ — đang bàn luận liệu họ có nên phát triển vũ khí hạt nhân của riêng mình để ứng phó với kho vũ khí ngày càng tăng của Triều Tiên hay không.

Nhật Bản, một quốc gia phi hạt nhân lâu đời, đang củng cố quân đội của mình theo đường hướng cho thấy sự thay đổi suy nghĩ về các điểm yếu chiến lược của mình.

Ở Trung Đông, việc Iran theo đuổi vũ khí hạt nhân từ lâu là một mối quan tâm và Ả Rập Saudi đã tuyên bố nếu Tehran có bom (nguyên tử), Riyadh sẽ làm theo.

 

Một thế giới có 10 hoặc 15 quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân không chỉ đơn thuần là một thế giới có nhiều khả năng răn đe hơn. Nó còn kéo theo nhiều khả năng nhầm lẫn trong sự tính toán hoặc giao tiếp và khả năng gây thảm họa .

Học thuyết MAD giả định các tác nhân có lý trí cao, nhưng không có gì đảm bảo rằng mọi quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ hành động như mong đợi trong một cuộc khủng hoảng.

Tại những khu vực có nhiều bất ổn chính trị, hoặc theo chủ nghĩa cực đoan hoặc tranh chấp lãnh thổ, nguy cơ xảy ra xung đột hạt nhân vô tình hoặc cố ý, tăng lên gấp bội.

Thế cân bằng hạt nhân lưỡng cực trong Chiến tranh Lạnh với những hiểm nguy của nó, vẫn có một mức độ nào đó có thể  dự đoán được. Hoa Kỳ và Liên Xô hiểu rõ những rủi ro của một cuộc xung đột hạt nhân và đã thiết lập các đường dây liên lạc rõ ràng để tránh tình trạng vô tình leo thang. Ngay cả trong cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, khi thế giới đứng bên bờ vực chiến tranh hạt nhân, cả hai bên cuối cùng đều chọn cách kiềm chế.

 

Nhưng một thế giới mà các quốc gia nhỏ nhanh chóng có được vũ khí nguyên tử thì kém ổn định hơn nhiều. Nếu Ả Rập Saudi sở hữu vũ khí hạt nhân, họ sẽ không có nhiều thập kỷ kinh nghiệm kế hoạch chiến lược và học thuyết răn đe mà Hoa Kỳ và Nga đã phát triển trong nhiều năm. Nếu một quốc gia như Ba Lan hoặc Hàn Quốc tìm cách sở hữu những vũ khí như vậy để đối phó với các mối đe dọa họ nhận thức, thì nguy cơ các cuộc chạy đua vũ trang khu vực mất kiểm soát, sẽ tăng theo cấp số nhân.

 

Sự lan rộng của vũ khí hạt nhân đặt ra vấn đề khả năng chỉ huy và kiểm soát chúng.

Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc duy trì các hệ thống tinh vi để ngăn chặn các vụ sử dụng trái phép. Nhưng liệu một quốc gia mới được vũ trang, đặc biệt là một quốc gia bất ổn về chính trị, có thể đảm bảo được mức độ an ninh tương tự không? Nếu vũ khí hạt nhân bị đánh cắp, phóng nhầm hoặc được sử dụng trong khoảnh khắc tuyệt vọng, hậu quả có thể rất thảm khốc.

 

Hơn nữa, càng có nhiều bên sở hữu vũ khí hạt nhân, thì càng khó ngăn chặn khủng hoảng leo thang. Sự cạnh tranh hiện tại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã mang theo mối đe dọa xung đột quân sự, đặc biệt liên quan đến Đài Loan. Nếu Bắc Kinh và Washington đã nằm trong tình trạng bế tắc, một thế giới có nhiều bên có sức mạnh hạt nhân sẽ khiến việc giảm leo thang ngoại giao trở nên phức tạp hơn nhiều.

 

Kiến trúc không phổ biến vũ khí hạt nhân của thế giới đã mong manh trước cuộc xâm lược của Ukraine. Giờ đây, nó phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng hiện sinh.

 

Việc Kyiv từ bỏ vũ khí hạt nhân từng được ca ngợi là chiến thắng của ngoại giao hậu Chiến tranh Lạnh, nhưng giờ đây nó chính là một lời cảnh báo. Nếu Nga giành chiến thắng sau cuộc xâm lược Ukraine, các quốc gia nhỏ hơn có thể coi vũ khí hạt nhân là điều cần thiết để bảo vệ chủ quyền của họ, quan trọng hơn bất kỳ áp lực ngoại giao hoặc kinh tế nào nhằm ngăn chặn việc sở hữu vũ khí hạt nhân với nguy cơ phá vỡ trật tự không phổ biến vũ khí hạt nhân.

 

Các cánh cửa chống lụt đang nứt và một khi chúng vỡ, sẽ không còn đường lui.

Câu hỏi đặt ra bây giờ là liệu phương Tây và NATO có thể khôi phục niềm tin vào các đảm bảo an ninh trước khi thế giới rơi vào chu kỳ phổ biến vũ khí hạt nhân mới hay không?

Liệu cuộc chiến tranh Ukraine có đánh dấu sự kết thúc của một kỷ nguyên mà vũ khí nguyên tử là ngoại lệ chứ không phải là quy luật?

 

Nếu vậy, cuộc khủng hoảng lớn tiếp theo sẽ không tập trung vào việc ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, mà là sống sót sau nó.

 

Thomas O. Falk là một nhà báo và bình luận viên chính trị có trụ sở tại London.

 

Thục Quyên lược dịch

 

Nguồn: Bài “Lessons from Ukraine: Allies are fickle, nukes are forever“ của Thomas O. Falk đăng ngày 12.03. 2025 trên báo The Japan Times.

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.