Nếu chúng ta, trong thị trường giải trí, từng một thời ướt át “tân cổ giao duyên” thì bây giờ người Mỹ, trong “thị trường chính trị”, như là biến thể mới nhất của nền chính trị quốc gia, đang khô khốc với sát khí “chăn lái giao duyên”. Nước Mỹ của thế kỷ 21, xem ra, đang đối mặt với nguy cơ tụt lùi về thế kỷ 19 của chủ nghĩa tư bản hoang dã và chủ nghĩa thực dân.
Nhưng “chăn lái” chỉ là cách nói cho thuận tai và thuận miệng vậy thôi, để chính xác thì phải “cao bồi – môi giới địa ốc” hay, Anh–Việt đề huề một chút, là “cowboy – dealer giao duyên”. Đó là sự lai tạo giữa mẫu người chẳng biết pháp luật là gì với hạng môi giới “lợi nhuận biện minh cho phương tiện” mà người đời, một lần va chạm, là một lần nghiến răng tự nhắc nhở mình phải dè sẻn lòng tin.
Hình tượng người chăn bò cowboy có trở thành thần tượng của giới trẻ là do Hollywood thì cũng chính kỹ nghệ điện ảnh này, qua tuyệt tác cao bồi về chiều Unforgiven, đoạt bốn giải Oscar 1992, đã đập tan huyền thoại khi cho thấy người hùng cũng bệ rạc, cũng tham lam, cũng độc ác và tồi tệ. Còn giới dealer chưa bao giờ được nâng thành huyền thoại thì, từ đầu tới cuối, luôn bị cảnh giác, dè chừng: nếu cha ông chúng ta mỉa mai “Thật thà như thể lái trâu” thì người Mỹ cũng vậy với hình tượng “honest dealer”/
Nhưng bây giờ thì hai thứ, ở tầm vóc cao nhất, đang “giao duyên” với nhau. Một dealer nhà nghề, trong vai trò quyền lực nhất thế giới, đã dẫm lên những quy tắc đạo đức lẫn pháp luật khi ngang nhiên hù dọa các quốc gia khác như thể một tay cao bồi miền viễn Tây hù dọa những bồi bàn quán rượu. Như một tên “chăn”, y đòi sáp nhập Canada và y nhạo báng nhà lãnh đạo mà nhân dân đất nước này bầu lên như là hạng “thống đốc” dưới quyền mình. Như một tên “lái”, y đòi sở hữu kênh đào Panama, đòi mua lại Greenland. Chỉ mới là khúc dạo đầu khi chưa chính thức nắm quyền mà đã thế thì, sau này, chính sách ngoại giao của y còn cao bồi đến đâu?
Nước Mỹ những năm qua, trừ cái giai đoạn kỳ quái mà mỗi thông báo quốc gia là một tin nhắn giật gân nhằm câu “like” trên mạng Twitter, vẫn chưa hẳn hoàn hảo nhưng ít ra vẫn đủ để nhiều người hay quốc gia hướng về, như chúng ta từng như thế khi liều chết băng biển tìm tự do, hay như Ukraine từng gởi gắm niềm tin khi bị Nga xâm lược. Và để được như thế thì nước Mỹ đã trải qua bao nhiêu bước tự hoàn thiện lấy mình. Hoàn thiện để bước qua thời kỳ “tư bản hoang dã” với những biện pháp tiết chế, từ đạo luật “Anti Trust” ngăn chặn độc quyền đến những biện pháp bảo vệ môi sinh, bảo vệ quyền lợi của nhân công. Hoàn thiện bằng cách bãi bỏ chế độ nô lệ, bãi bỏ sự kỳ thị với những xe bus, nhà hàng, trường học không cho người da đen thò chân v.v. Nhưng bây giờ thì đất nước này đang đối mặt với nguy cơ thụt lùi mà, để hiểu, cần phải nhìn lại những thứ mà đã từng rũ bỏ trên khía cạnh ngoại giao.
Đầu tiên là Học thuyết Monroe, do James Monroe – Tổng thống thứ năm (1817- 1825) -- công bố trước Quốc Hội ngày 2/12/1823 với ba yếu tố chính: thứ nhất, chấm dứt việc mở mang thuộc địa của Âu Châu tại Châu Mỹ La-Tinh; thứ hai, chính trị Mỹ sẽ tách rời nghị trình Châu Âu; thứ ba, Âu Châu không có quyền can thiệp vào Châu Mỹ. Nói cho gọn thì “Mỹ Châu là của người Mỹ” nhưng bởi Mỹ vẫn chưa đạt đến tư thế vượt trội nên Monroe đành phải công nhận những thuộc điạ cũ của Âu Châu, chỉ đòi hỏi rằng tiến trình khai thác thuộc địa phải chấm dứt, những phần đất bỏ ngõ phải là của Mỹ.
Gần ba phần tư thế kỷ sau đó thì Venezuela lại bám vào học thuyết này khi tranh chấp với Anh. Đang nắm giữ thuộc địa Guiana, năm 1895 Anh tranh giành khu vực Essequibo có nhiều mỏ vàng với láng giềng Venezuela nên bị Venezuela la lối là xâm phạm học thuyết ngoại giao Mỹ. Diễn biến này đã thổi bùng “chủ nghĩa quốc gia” mang màu sắc đế quốc tại Mỹ, thúc đẩy việc gia tăng sức mạnh quân sự để bảo đảm lợi ích của mình và, vậy là, từ thời Grover Cleveland – Tổng thống thứ 22 (1885-1889) và thứ 24 (1893-1897) -- ngân sách quân sự được gia tăng đáng kể, nhất là với hải quân. Đến thời Theodore Rooselvelt -- Tổng thống thứ 26 (1901-1909) – thì Mỹ đã xây dựng một hạm đội hùng mạnh và tỏ ra quyết đoán hơn, thậm chí, chỉ trong vòng mấy chục tiếng đồng hồ, có thể tạo nên một quốc gia mới.
Đó là Panama, vốn thuộc về lãnh thổ Colombia. Năm 1903 Mỹ đề nghị mua đứt khu vực có con kênh với giá 10 triệu đô la nhưng Colombia bác bỏ. Nổi cáu, ông Rooselvelt ra lệnh sách động phong trào ly khai tại Panama và chọn ông Manuel Amador, một chính khách địa phương. Ngày 17/10/1903, Amador cùng nhiều “nhà ly khai” khác đến Mỹ nhằm sắp đặt cuộc “cách mạng” chống lại “ách thống trị” Colombia và, chỉ một ngày sau, “hiến pháp”, “quốc kỳ” và “đại sứ” của Panama đã sẵn sàng trên đất Mỹ. Bunau-Varilla, một kỹ sư Pháp từng làm việc cho công ty kênh đào Panama, được bổ nhiệm làm Đại sứ Panama tại Mỹ và, do đó, trở thành vị đại sứ kỳ quái nhất trong lịch sử nhân loại: quốc gia ông ta đại diện vẫn chưa ra đời còn ông ta thì chưa bao giờ được phép thường trú tại phần đất này.
Hai tuần sau, 3/11/1903, bằng tài trợ Mỹ, phong trào ly khai Panama đã mua chuộc toàn bộ lực lượng an ninh địa phương rồi, chờ khi các chiến hạm Mỹ tiến vào cảng Colon, họ mới công bố “tuyên ngôn độc lập”. Ngày 6/11/1903 Mỹ tuyên bố công nhận tân quốc gia và ngay hôm sau, phái đoàn của tân chính phủ đã lên đường sang Mỹ nhằm thương thảo về thoả ước kênh đào. Tuy nhiên, khi phái đoàn đến Washington D.C bằng đường hoả xa vào lúc 11.30 ngày 18/11, hiệp ước đã được viên đại sứ ký trước đó mấy tiếng đồng hồ!
Giai đoạn này Châu Mỹ La-Tinh rối lên với tình trạng vỡ nợ bởi nhiều quốc gia không gánh nổi những khoản vay lãi suất cao từ Âu Châu, dẫn đến tệ đưa tàu chiến đến đòi nợ. Lo sợ trước việc này, ông Luis M. Drago, Ngoại trưởng Argentina, vận động một điều ước quốc tế nhằm ngăn cản nhưng, do biết trước, ngày 3/12/1902 Tổng thống Rooselvelt tuyên bố Mỹ sẽ không can thiệp nếu những chủ nợ Âu Châu không có ý định ở lỳ.
Nhưng Venezuela lại làm Mỹ thay đổi. Đầu tiên là việc nhà độc tài Cipriano Castro thách thức Âu Châu khi đơn phương xoá nợ hay chiếm hữu tài sản ngoại quốc và theo các sử gia thì Castro vẫn sợ tàu chiến Âu Châu nhưng ông ta cậy vào Học thuyết Monroe. Tuy nhiên, Rooselvelt đã bật đèn xanh nên những hạm đội Anh, Đức và Ý rầm rộ tiến vào hải phận Venezuela, thoải mái phong tỏa đường biển, đánh đắm hay tịch thu tàu bè, thậm chí nả pháo vào các thành phố, hải cảng. Cipriano vội vã cầu cứu Mỹ nhưng Mỹ lại lấy làm hài lòng khi Âu Châu vẫn tỏ ra dè dặt và tôn trọng Học thuyết Monroe. Venezuela bèn kiện ra toà án quốc tế và phán quyết Toà án Hague ngày 22/2/1904 công nhận việc dùng vũ lực đòi nợ nhưng diễn tiến này lại khiến Mỹ bất an bởi chiến Âu Châu có thể hiện diện hợp pháp ở sân sau của mình.
Mỹ lập tức xét lại chính sách của mình và Học thuyết Monroe được cập nhật với cương lĩnh Roosevelt Corollary, do Tổng thống Rooselvelt công bố ngày 6/12/1904: thứ nhất, nghiêm cấm sự can thiệp của những chính quyền khác trong những vấn đề của Mỹ Châu La-Tinh; thứ hai, Mỹ nhận lãnh vai trò sen đầm khu vực để bảo đảm rằng những quốc gia này “hoàn thành nghĩa vụ quốc tế” của họ.
Để hiểu rõ đường lối này thì hãy nhìn vào Dominican, một đảo quốc nhỏ bé trong vùng biển Caribbean: để khỏi nợ nần thì Dominican có “nghĩa vụ” phải chấp nhận một cố vấn kinh tế Mỹ trong vị trí cầm cân nẩy mực trong hệ thống tài chính của mình. Nhưng Mỹ còn muốn thay thế Âu Châu ở vị trí chủ nợ, như một mũi tên bắn vào hai đích: vừa gạt Âu Châu ra ngoài, vừa hợp pháp hoá quyền can thiệp bằng vũ lực theo án lệ của Tòa án Hague với tư cách chủ nợ.
Khi William Howard Taft – Tổng thống thứ 27 (1909 – 1913) -- kế nhiệm Roosevelt, đường lối “Ngoại Giao Đô-la” do ngoại trưởng Philander Knox khởi xướng lại được ráo riết thi hành. Theo đường lối này thì ngân hàng Mỹ sẽ “tích cực” cho những quốc gia trong khu vực vay tiền và, đến lượt, chính phủ Mỹ sẽ “tích cực” bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng và công dân Mỹ khi cần thiết. Như thế, khi được yêu cầu, Mỹ sẽ lập tức tăng phái quân đội với nhiệm vụ “vãn hồi trật tự” để rồi sau đó tổ chức bầu cử nhằm thiết lập một chính quyền “ổn định”.
Điều này từng diễn ra tại Nicaragua. Xứ sở này có một vị trí chiến lược bởi tàu bè Mỹ ra vào kênh đào Panama đều phải băng ngang hải phận của Nicaragua, ở cả hai bên đại dương. Tuy nhiên nhà độc tài José Zeleya (1893-1910) chỉ trông dựa vào những ngân hàng Âu Châu và năm 1909, một nhóm quân nhân - khởi động nội chiến nhằm lật đổ Zaleya với sự ủng hộ của Mỹ. Nhưng một năm sau, khi họ ca khúc khải hoàn, Mỹ vẫn chưa chịu công nhận ngay bởi còn phải đợi ngày thay chủ nợ: nước này cần vay tiền Mỹ để trả nợ Âu Châu. Nhưng vẫn chưa xong. Mỹ sau đó còn ép Nicaragua phải chuyển giao quyền kiểm soát ngành quan thuế, là điều mà không một quốc gia tự trọng dễ dàng chấp nhận. Tháng 12/1911, khi Knox đơn phương công bố “Mỹ hoá” ngành quan thuế, bạo động đã bùng nổ nhưng Mỹ đã sẵn sàng với những chiến hạm trên biển và thủy quân lục chiến trên đất liền.
Cả Woodrow Wilson -- Tổng thống thứ 28 (1913 -1921) -- cũng chỉ trích tính chất vô đạo đức ở chính sách ngoại giao này. Năm 1913, sau khi nhậm chức, Wilson đã nêu lên những bất công giữa Mỹ và những quốc gia phương Nam: những đặc quyền đặc ê hề của Mỹ dưới mỹ từ “nhân nhượng” nhưng nước Mỹ thì chưa bao giờ “nhân nhượng” ai cả. Mà Wilson cũng chỉ đả kích để… đả kích thôi bởi, càng đả kích bao nhiêu, ông ta càng củng cố vị trí và quyền lợi Mỹ tại khu vực bấy nhiêu.
Nước Mỹ của thế kỷ 19, như thế, đã hành xử như một gã cao bồi mà, nếm mùi nặng nhất, phải là láng giềng Mexico. Sau cuộc chiến 1846-1848 - vốn bùng nổ sau khi Mỹ sáp nhập vùng Texas vào năm 1845 -- Mexico buộc phải nhượng cho Mỹ gần một phần hai lãnh thổ tuy nhiên, qua những thước phim, hay những trang sách phiên lưu rặt giọng cao bồi, người Mexico bao giờ cũng xuất hiện như một thế lực xấu xa, đồi bại. Có bị chèn ép như thế thì ông Porfiario Diáz, Tổng thống Mexico từ năm 1877 đến 1911, mới than: “Khốn nạn thay cho tổ quốc của chúng ta. Thượng Đế thì xa quá mà nước Mỹ thì gần quá!”
Bây giờ, với khúc dạo đầu của nhà “chăn lái giao duyên” với cái tên The Gulf of Mexico thôi, chừng như người Mexico đang sống lại cảm giác của cố Tổng thống Diáz. Thoạt đầu, khi những nhà lập quốc Mỹ chọn cái tên Hiệp chúng quốc Mỹ Châu - United States of America -- họ đã, vô tình hay cố ý, “cướp” luôn cái tên America của cả một châu lục. Bây giờ thì y đòi thay đổi lịch sử, xóa luôn cái tên đã hình thành hơn bốn trăm năm. Y, xét về nhân cách và nghề nghiệp, đúng là một tay “chăn lái” nhưng về phong cách chính trị thì lại là một thứ “tân cổ giao duyên”. “Tân” vì ông ta là của hôm nay, của bốn năm sắp tới. Còn “cổ” là thì muốn quay lại như xưa, từ khẩu hiệu vĩ đại như xưa MAGA, từ phong cách cao bồi viễn Tây chẳng xem pháp luật ra gì, từ phong cách tư bản hoang dã, cái trò làm giàu bằng cách bóc lột xã hội không thương tiếc và phá hoại môi trường không e dè, không vướng víu bất cứ sự kiểm soát nào.
Nền chính trị quốc gia đang biến thành một “thị trường quyền lực” và chính quyền Mỹ đang chuyển mình thành một orligachy, cái bộ máy chính trị quả đầu với sự thao túng của một tội phạm ở trên cao và sự a tòng của đám đặc quyền ở dưới. Không chỉ là người Mỹ mà là tất cả, nếu yêu chuộng công lý và hòa bình, và nếu có khả năng phê phán, có ai mà không cảm thấy bất an? Bất an như những cư dân ở những thị trấn miền viễn Tây ngày nào khi phía chân trời xa cuộn lên những quầng bụi đỏ, báo hiệu một băng cao bồi đang rầm rập tiến vào và tôi, trong cái tâm trạng chung này, không thể không nghĩ đến mẫu văn chuyển tiếp trong tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa khi câu chuyện trở nên gay cấn: “Muốn biết sự việc thế nào, đón xem hồi sau sẽ rõ”.
Quá nửa đời nhìn lại, ai cũng có thể nhận ra rằng thời gian sao mà nhanh quá, những vụng về, những điều trót dại hay lỡ lầm thời trẻ, dẫu đã ngót nghét nửa thế kỷ rồi, vậy mà cứ như là mới ngày hôm qua. Thế nhưng bây giờ, nếu nhìn về thẳng về phía trước để trông đợi cái “hồi sau sẽ rõ”của một nước Mỹ ảm đạm như cảnh về chiều, chúng ta mới cảm nhận ngược lại rằng thời gian sao mà dài quá, dài đến “thăm thẳm chiều trôi”…
Nguyễn Hoàng Văn
Tài liệu tham khảo:
Dexter Perkin (1946) A History of the Monroe Doctrine, Boston: Little, Brown and Company.
George F. Kennar (1968) American Diplomacy, 1900-1950, New York: Mentor Book.
Robert D. Schulzinger (1984) American Diplomacy in the 20th Century, Oxford University Press.
Gửi ý kiến của bạn