Hôm nay,  

Không Nên Lo Cho Mỹ Về Nguy Cơ Lạm Phát*

21/06/202114:29:00(Xem: 2679)

Project-Syndicate 

Tỷ lệ lạm phát ở Hoa Kỳ và Châu Âu gia tăng nhẹ đã gây ra những lo lắng trong thị trường tài chính. Có phải chính quyền của Tổng thống Joe Biden đang có nguy cơ làm quá nóng nền kinh tế với gói cứu trợ trị giá 1.9 nghìn tỷ đô la và các kế hoạch chi tiêu bổ sung để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tạo việc làm và hỗ trợ cho các gia đình ở Mỹ?

Những lo ngại như vậy là còn sớm, khi xét đến tình trạng bất trắc mà chúng ta vẫn còn đối phó. Chúng ta chưa bao giờ trải nghiệm về một cuộc suy sụp do đại dịch gây ra trước đây với suy thoái kinh tế trong khu vực dịch vụ một cách không cân xứng, sự gia tăng bất bình đẳng chưa từng có và tỷ lệ tiết kiệm tăng vọt. Thậm chí không ai biết liệu có thể và khi nào COVID-19 sẽ được ngăn chặn ở các nền kinh tế tiên tiến hay không, chứ đừng nói chi đến cho toàn cầu. Trong khi cân nhắc đến các rủi ro, chúng ta cũng phải soạn thảo kế hoạch cho tất cả các biện pháp dự phòng. Theo quan điểm của tôi, chính quyền Biden đã xác định một cách đúng đắn về so sánh các rủi ro nào gây ra quá ít và quá nhiều.


Hơn nữa, phần lớn áp lực lạm phát hiện tại bắt nguồn từ những trở ngại ngắn hạn về phía nguồn cung, đó là điều không thể tránh khỏi khi chúng ta tái khởi động nền kinh tế đã tạm thời bị phong toả. Chúng ta không thiếu năng lực tổng quát để chế tạo ô tô hoặc chất bán dẫn; nhưng khi tất cả các ô tô mới sử dụng chất bán dẫn và nhu cầu về ô tô bị sa sút trong tình trạng bất trắc (như đã xảy ra trong trận đại dịch), việc sản xuất chất bán dẫn sẽ bị hạn chế. Nói rộng hơn, điều phối tất cả các chuẩn bị cho sản xuất trên một nền kinh tế toàn cầu được tích hợp một cách phức tạp là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn mà chúng ta thường coi là chuyện đương nhiên, vì mọi thứ hoạt động rất tốt và bởi vì hầu hết các biện pháp điều chỉnh đều xem là chuyện "bên lề".


Hiện nay, tiến trình bình thường đã bị gián đoạn, sẽ có trục trặc, và những điều này sẽ biến thành việc tăng giá cho sản phẩm này hay sản phẩm khác. Nhưng không có lý do gì để tin rằng những chuyển động này sẽ thúc đẩy các kỳ vọng về lạm phát và do đó tạo ra động lực lạm phát, đặc biệt đứng trước tình trạng công suất dư thừa chung trên toàn thế giới. Điều đáng ghi nhớ là mới gần đây một số người cảnh báo về tình trạng lạm phát từ nhu cầu quá mức, họ đã nói về tình trạng trì trệ thường tình, nó sinh ra từ nhu cầu tổng hợp không đủ (ngay cả khi mức lãi suất bằng 0).


Ở một đất nước mà tình trạng bất bình đẳng sâu xa, lâu đời đã bị phơi bày và trầm trọng hơn bởi trận đại dịch, một thị trường lao động chặt chẽ sẽ đúng là những liệu thuốc định bịnh. Khi nhu cầu lao động tăng mạnh, tiền lương ở mức thấp nhất tăng và các nhóm bị thiệt thòi được nhận vào trong thị trường lao động. Tất nhiên, sự xiết chặt chính xác của thị trường lao động Mỹ hiện tại là một vấn đề của một số cuộc tranh luận, với các báo cáo về tình trạng thiếu hụt lao động, mặc dù mức nhân dụng vẫn thấp hơn rõ rệt so với mức trước lúc khủng hoảng.


Những người bảo thủ đổ lỗi cho tình hình là do các khoản trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp quá hào phóng. Khi so sánh các nguồn cung lao động trên khắp các tiểu bang của Hoa Kỳ, các nghiên cứu kinh toán học cho thấy rằng những loại tác động không khích lệ cho lao động này bị hạn chế. Và trong mọi trường hợp, việc mở rộng các trợ cấp thất nghiệp sẽ kết thúc vào mùa thu, mặc dù tác động kinh tế toàn cầu của virus sẽ kéo dài.


Thay vì hoảng sợ về lạm phát, chúng ta nên lo lắng về những gì sẽ xảy ra với tổng khối nhu cầu khi các quỹ cung ứng bởi các gói cứu trợ tài chính cạn kiệt. Nhiều người trong số những người ở mức thấp nhất về thu nhập và phân phối tài sản đã gây ra các khoản nợ lớn, trong một số trường hợp, trị giá nhiều hơn so với một năm thiếu nợ tiền thuê nhà, vấn đề là nhờ các biện pháp bảo vệ tạm thời chống lại việc trục xuất.


Tình trạng giảm chi tiêu của các hộ gia đình mắc nợ không hề được bù đắp bởi những người giàu thượng lưu, hầu hết họ là những người đã tích lũy tiền tiết kiệm trong đại dịch. Nếu cho rằng khoản chi của các mặt hàng tiêu dùng lâu dài vẫn còn mạnh trong 16 tháng qua, thì có vẻ như là người khá giả sẽ sử dụng khoản tiết kiệm bổ sung của họ giống như bất kỳ khoản thu nhập bất thường nào khác: như một thứ gì đó được đầu tư hoặc chi tiêu một cách chậm chạp trong suốt nhiều năm. Trừ khi có khoản công chi mới, một lần nữa, nền kinh tế có thể phải gặp khó khăn về số tổng cầu khiếm hụt.


Hơn nữa, ngay cả khi áp lực lạm phát trở nên thực sự đáng lo ngại, chúng ta có các công cụ để giảm cho nhu cầu (và sử dụng các công cụ sẽ thực sự đẩy mạnh triển vọng dài hạn của nền kinh tế). Để bắt đầu, có chính sách về lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ. Hơn một thập kỷ qua, lãi suất gần như bằng không đã không làm lành mạnh cho nền kinh tế. Giá trị khan hiếm của vốn không phải bằng không. Lãi suất thấp làm xáo trộn thị trường vốn bằng cách kích hoạt cho việc tìm kiếm lợi nhuận, nó dẫn đến việc chọn các phụ phí cho các rủi ro thấp. Trở lại tình trạng lãi suất bình thường hơn sẽ là một điều tốt (mặc dù người giàu, những người hưởng lợi chính của thời đại lãi suất cực kỳ thấp này, có thể họ muốn có sự khác biệt).


Để chắc chắn, một số nhà bình luận xem các bảng đánh giá về cán cân rủi ro của Cục Dự trử Liên bang và lo lắng rằng Cục sẽ không hành động khi cần thiết. Nhưng tôi nghĩ rằng các lời tuyên bố của Cục đưa ra, và tôi tin rằng quan điểm của Cục sẽ thay đổi nếu và khi nào có bằng chứng phải làm như vậy. Bản năng chống lạm phát được có trong DNA của các ngân hàng trung ương. Nếu họ không coi lạm phát là vấn đề chính hiện nay đang phải đối mặt với nền kinh tế, bạn cũng không nên lo như vậy.


Công cụ thứ hai là tăng thuế. Đảm bảo tình trạng lành mạnh lâu dài của nền kinh tế đòi hỏi đầu tư công nhiều hơn, điều này sẽ phải được trả bằng một giá. Tỷ lệ thuế tính trên GDP của Mỹ là quá thấp, đặc biệt là trong tình trạng bất bình đẳng trầm trọng của Mỹ. Có một nhu cầu cấp thiết về một hệ thống thuế luỹ tiến hơn, chưa kể đến thuế về môi trường đ đối phó với cuộc khủng hoảng khí hậu. Điều đó nói rằng, khi do dự trong việc ban hành các loại thuế mới trong khi nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng bấp bênh, đó là chuyện hoàn toàn là dễ hiểu.


Chúng ta nên công nhận rằng "cuộc tranh luận về lạm phát" hiện nay như là những gì mà nó đang là: một dấu vết sai lầm được đặt ra bởi những người tìm cách cản trở những nỗ lực của chính quyền Biden để giải quyết một số vấn đề cơ bản nhất của Mỹ. Thành công đòi hỏi nhiều công chi. Cuối cùng, Hoa Kỳ cũng may mắn có được giới lãnh đạo kinh tế mà họ sẽ không chịu khuất phục trước nỗi sợ hãi.


***


*Người dịch đặt tựa đề cho bản dịch


Joseph E. Stiglitz đoạt giải Nobel kinh tế, Giáo sư Đại học Columbia, Cựu Trưởng ban Kinh tế của Ngân hàng Thế giới (1997-2000) Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa Kỳ, Tác giả chủ biên của Thẩm định Khí hậu (IPCC,1995) và Đồng Chủ tịch Ủy ban Quốc tế về Định giá Các-bon.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.