Hôm nay,  

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đi

10/12/202011:47:00(Xem: 3198)


blank


Rời khỏi quê hương, chân ướt chân ráo đến một vùng đất an bình và xa lạ, tôi ngồi thở hổn hển cả năm rồi mới hoàn hồn. Ngó trước – ngó sau: té ra, xứ mình không phải là nơi đầu tiên (hay duy nhất) mà dân chúng phải lũ lượt bỏ của chạy lấy người. 


Thiên hạ đã đi tị nạn từ rất nhiều nơi khác, và lắm kẻ đã đi tự lâu rồi. Tuy thế, tôi vẫn tin rằng không dân tộc nào mà chuyện lánh nạn cộng sản lại nhiêu khê, và lê thê (kéo dài suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác) như đám dân Việt cả.


Sau khi Hiệp Định Geneve 1954, gần triệu người miền Bắc ào ạt di cư vào Nam. Mẹ già kể lại là bà quang ghánh hai đầu: một đầu là tôi (*) với người chị kế, và một chú cún con; đầu kia lủ khủ bao bị, mùng mền, áo quần, gạo muối… Sở dĩ phải có thêm con chó nhỏ vì chị tôi từ chối rời nhà, nếu không cho nó đi cùng. 

Những kẻ chậm chân – ra đi kể từ ngày ba trăm lẻ một, sau thoả hiệp đình chiến –  không còn được coi là dân di cư mà bị coi là “kẻ vượt tuyến.” Chỉ qua tên gọi cũng đủ thấy số phận của họ gian nan hơn hẳn. Đoàn Thêm (trong cuốn Việc Từng Ngày: 1954 – 1964, Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1966) ghi nhận: 

  • 4 tháng 10, 1956: 3 người liều chết bơi qua sông Bến Hải vào Nam tìm tự do. 

  • 19 tháng 11, 1956: 19 người dân Nghệ An dùng ghe vượt biển vào Nam.

  • 8 tháng 4, 1957: 41 người dùng thuyền vượt tuyến vào Nam.

  • 28 tháng 10, 1957: 2 sinh viên vượt tuyến vào Nam … 

  • 11 tháng 2, 1958: 14 người xuyên qua Lào đến được miền Nam. 

Thảm kịch “vượt tuyến” khiến dư luận xôn xao nhất (có lẽ) là trường hợp của Vũ Anh Khanh. Nhà thơ Viên Linh tường thuật:

“Sau 20 tháng 7, 1954, ông tập kết ra Bắc, nhưng rồi chỉ ba năm sau ông quyết định bơi qua sông Bến Hải trở lại quê hương bản quán, thì một mũi tên tẩm thuốc độc từ bờ Bắc bắn theo ông. Thi sĩ đã không tới được bến bờ tự do, Bến Hải đã trở thành một dòng sông vĩnh biệt.”


Hơn hai thập niên sau, sau khi “miền Nam được hoàn toàn giải phóng” không lâu –  bắt đầu từ cuối thập niên 1970 – Vịnh Thái Lan lại trở thành “vùng biển vĩnh biệt” của hằng trăm ngàn người dân Việt khác. Những kẻ sống sót được nhân loại mệnh danh là boat people vì họ vượt biên bằng thuyền. 


Thuyền nhân có hai loại: bán chính thức và chui. Trong tập thể đi chui, thỉnh thoảng, vẫn có lẫn những kẻ đi hôi hay đi ké. Tôi không có vàng để nộp cho chủ ghe, cũng không đủ trơ tráo (hay táo bạo) để đi hôi nên chọn một phương cách thứ hai: đi ké. 


Rời trại cải tạo ra, tôi về đến Đà Lạt và được biết mình chỉ được phép sống ké (và sống tạm) ở nhà thôi vì không có tên trong sổ hộ khẩu. Thế là tôi đi nữa, dù chưa biết đi đâu. Loay hoay mãi rồi tôi tìm đến một thành phố ven biển. Sau một thời gian bán bánh tiêu, và chạy xe lôi, tôi lân la làm quen (rồi xin phụ việc) cho những người dân ở một xóm chài. 


Tôi không phải là tài công, không phải tài cải (thợ nấu) cũng chả phải là thợ câu hay thợ lưới … mà chỉ là thợ vịn nên được giao cho mọi việc lặt vặt dưới ghe: quăng phao, kéo đục, lựa tôm, lựa cá, dọn dẹp, lau chùi … Tôi làm tất tần tật mọi thứ, và không hề đòi hỏi tiền bạc hay thù lao gì ráo trọi –  ngoài những bữa cơm thanh đạm.


Ban ngày, tôi còn tình nguyện coi ghe từ sáng tới chiều vì lên bờ cũng chả có chỗ đi. Biết đi đâu khi túi không có một đồng, và cũng chả có một tờ giấy tùy thân để lận lưng. Chỉ lỡ đạp bánh tráng thôi cũng đã đủ phiền rồi; còn nhỡ mà đụng công an thì (ôi thôi) chắc chắn là phiền lắm, phiền lâu và phiền lớn. Lại vào tù thêm lần nữa, dễ như không!


Dân chài vốn hào sảng nên những khi trúng đậm (bất kể cá/tôm) thế nào tôi được kéo lên nhà một ông/bà nào đó để ngồi lai rai ba sợi suốt đêm, khỏi phải ra khơi. Cái gì chớ rượu thì chịu quá nhưng vì chỉ thuộc thành phần nhậu ké nên tôi vẫn thường giữ một thái độ ké (né) cho nó dễ coi: uống vừa, nói ít và chỉ cười (trừ) cho tới sáng.


Phần lớn tài công trong vùng đều hành nghề theo thói quen đi biển đã lâu, chứ không mấy ai đã từng lái ghe qua khỏi Hòn Tre và cũng chả mấy người có khái niệm rõ ràng gì về bốn phương tám hướng. Bởi thế, khi bàn rượu rôm rả về chuyện vượt biên – đôi khi – tôi cũng từ tốn góp chút ý kiến về phương giác, và cách xử dụng hải bàn.


Cũng có lúc, tôi dùng ngón tay chấm rượu để vẽ hình mũi Cà Mau (cùng những vùng biển lân cận) và giải thích cho mọi người hiểu tại sao nếu từ Rạch Giá mà muốn qua Thái Lan thì buộc phải đi theo hướng Tây/Nam. Chịch về hướng Tây có thể bị lạc sang Cao Miên. Còn xuôi Nam hẳn thì bị lọt xuống Úc Đại Lợi. Như thế,  sẽ không đủ dầu vì đường rất dài (và cũng rất gian truân) trong khi cả xóm không ai sắm được một cái tầu nào ngon lành cả.


Có lẽ nhờ chút hiểu biết về hải hành mà tui lọt vô mắt xanh của một ông chủ ghe, và được giao cho cầm lái để đi (ké) tới Thái Lan vào mùa Hè 1980. Bốn mươi năm sau, sau khi đã sống đến gần hết cuộc đời của một người tị nạn – vào hôm 17 tháng 6 năm 2020 – tôi tình cờ nghe RFA ái ngại loan tin: “Mười một người Việt Nam vượt biển đi Úc bị bắt giữ ở Đông Timor.”


blank


Họ là những người vượt biên mới nhất theo đường biển, chứ chưa hẳn đã là những kẻ cuối cùng. Đồng bào tôi vẫn tiếp tục ra đi nhưng tuyệt đại đa số lựa chọn nhiều phương cách khác, tùy theo túi tiền và hoàn cảnh. Theo dữ liệu của Tổ Chức Di Dân Quốc Tế (IOM) “từ năm 1990 đến năm 2015 có hơn 2,5 triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư.” Đây là một hiện tượng bất thường, theo công luận:

  • Blogger Song Chi: “Dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại… Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con thuyền đang đắm!”


  • Nhà báo Nguyễn Quang Duy: “Hầu hết người Việt Nam ra đi lặng lẽ như một làn sóng ngầm (còn gọi là ‘bỏ phiếu bằng chân’). Họ gồm ba nhóm đối tượng chính: Một là giới trí thức (và sinh viên), hai là các doanh nhân (giàu có), ba là gia đình các quan chức (thường là tham nhũng). Họ ra đi do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính thường do cảm giác bất an…”


  • Nhà văn Đào Hiếu: “Đất nước đã bị cưỡng đoạt.”


  • T.S  Phương Mai gọi đây là cuộc “tị nạn niềm tin” của những người không muốn “sống gù.” 


  • Thi Sĩ Inra Sara thêm: Làm thế nào đừng phải đi bằng lưng, làm sao không phải dạ dạ vâng vâng bợ trên đạp dưới, để vẫn có thể sống như là sống? Sống, và có thể sáng tạo?

Những bậc thức giả (thượng dẫn) đã nói thế thì kể như là … hết ý rồi. Tôi chỉ dám (trộm) nghĩ rằng trừ lũ cột đèn, dân Việt ai cũng muốn bỏ đi vì tất cả đều chia chung cái tâm cảm của những kẻ chỉ được sống tạm (hay sống ké) trên mảnh đất quê hương của chính mình. 

Những “bác nông phu vài ngàn năm đứng trên đất nghèo” không hề nao núng nhưng với luật “đất đai là sở hữu của toàn dân” (nên có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào) thì bỗng trở nên hụt hẫng.

Sau khi núi rừng bị khai thác đến trơ trụi (và sau những biến động tàn bạo xẩy ra ở Tây Nguyên (20012004) – Điện Biên (2011) không ít sắc dân miền núi ở Việt Nam cũng đành phải rời bỏ bản làng. Họ ra đi trong vô vọng và vô định. Người bị bắt lại thì vào tù không có ngày ra; còn kẻ chạy thoát thì đang sống một cách bần cùng ̣(và mòn mỏi) ở hai nước láng giềng: Miên và Thái.

Ngư dân nay không còn “nhìn trùng dương hát câu no lành” như Phạm Duy đã từng mô tả. Mắt trước (mắt sau) họ lấm lét cứ như là kẻ trộm, dù đang thả lưới trong hải phận Việt Nam. Đã thế, họ lại còn “được” Đảng và Nhà Nước “trao cờ tổ quốc để vươn khơi bám biển” thay cho … lực lượng Hải Quân!

Ngay cả những vị Đại Biểu Quốc Hội (cơ quan quyền lực cao nhất nước) cũng chỉ là những kẻ ngồi ké né ở nghị trường – với cái quốc tịch thứ hai dấu kín trong túi áo, cùng với tâm trạng thấp thỏm – và sẵn sàng để chuồn, ngay khi có biến!  

Giới lãnh đạo cũng thế. Cũng đều hối hả vơ vét  (“không từ một thứ gì”) như những kẻ đang trên một chuyến tầu vét cuối cùng. Thái độ nhấp nhổm của mọi giới “tinh hoa” khiến chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan không khỏi băn khoăn: “Đi định cư ở nước ngoài cả, đất nước này ai xây dựng đây?”


Bao giờ mà cái chế độ hiện hành còn tồn tại ở Việt Nam thì xây dựng, xem chừng, là điều bất khả. Còn có ai thiết tha chi đến một mảnh đất mà mình chỉ được quyền sống ké (hay sống tạm) thôi.


T.N.T


(*) Dù chào đời tại Sài Gòn trước Hiệp Định Geneve, tôi vẫn “có mặt” trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam hồi 1954. Đây là chuyện hơi khó hiểu, và cũng hơi dài dòng nên xin được giải bầy sau – khi tiện dịp.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cách đây hơn 100 năm, có một thanh niên, mới ngoài 20 tuổi, sinh tại Nghệ An đã tới Anh để tìm kế mưu sinh sau khi gia đình gặp hoạn nạn. Theo một nguồn tin chính thống của Hà Nội, đó là thanh niên có tên Nguyễn Tất Thành tới Luân Đôn bằng đường biển vào khoảng giữa năm 1914...
Đố ai chứng minh được ”Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta” như đảng Cộng sản Việt Nam tuyên truyền? Càng mơ hồ hơn khi nghe nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Hạ Viện Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 10 năm 2023 đã làm một việc mà chưa từng làm bao giờ trước đây trong lịch sử của nước này: Truất phế chức Chủ Tịch Hạ Viện. Kevin McCarthy, đảng viên Cộng Hòa tại California, đã mất chức trong cuộc bỏ phiếu với tỉ lệ 216/210. Để nhìn sâu hơn vào vấn đề này, The Conversation U.S. có cuộc trò chuyện với giáo sư chính trị học Charles R. Hunt tại Đại Học Boise State University.
Nếu Mỹ duy trì các liên minh, đầu tư cho riêng mình và tránh các khiêu khích không cần thiết, Mỹ có thể giảm xác suất lâm vào một cuộc chiến tranh lạnh hoặc nóng với Trung Quốc. Nhưng để xây dựng một chiến lược hũu hiệu, Mỹ sẽ phải tránh những phép loại suy luận quen thuộc trong lịch sử nhưng gây hiểu lầm.
Nếu vụ tấn công ngày 11 tháng 9 ở Hoa Kỳ đã thay đổi tình hình ở Trung Đông và toàn thế giới, thì "ngày 7 tháng 10" cũng có thể ảnh hưởng đến những gì sẽ xảy ra tiếp theo, bởi tuy hoàn toàn không có một chút liên hệ trực tiếp nào với cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine, nhưng trên thực tế, sự quan tâm đang xoay qua cuộc chiến Hamas-Israel lại có thể là một lợi thế cho Nga. Việc Hamas có thể tấn công bất ngờ vào Israel không chỉ là một thất bại đối với tình báo Israel, mà ngay cả Mỹ cũng đã hoàn toàn bị ru ngủ. Chỉ một tuần trước, Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Jake Sullivan tuyên bố rằng "khu vực Trung Đông ngày nay yên bình hơn so với nhiều thập kỷ trước".
Tượng Đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng lớn nhất Đông Nam Á thì chắc chắn là một “kỳ quan” của thế giới rồi. Không được xem (qua) quả là điều đáng tiếc. Tuy nhiên, theo báo chí thì dù mới khánh thành nó đã bị bong gạch hết trơn rồi. Thôi thì đi chỗ khác chơi cho nó lành. Tôi quyết định sẽ đi thăm Địa Đạo Củ Chi. Trước khi tới nơi tưởng cũng nên ghé Wikipedia coi qua chút đỉnh:
Theo Hội Thư Viện Hoa Kỳ (American Library Association), nỗ lực cấm sách ở các trường công lập và thư viện công cộng trong năm 2022 đã đạt mức cao nhất mọi thời đại, và có rất ít dấu hiệu sẽ giảm bớt vào năm 2023. Phong trào cấm sách trong thời gian qua có vẻ như là một chiến dịch phối hợp diễn ra ở cả cấp tiểu bang và địa phương; những cuốn sách bị nhắm mục tiêu thường là những cuốn có nội dung đề cập đến chủng tộc, giới tính hoặc cả hai. Thậm chí một số nỗ lực còn dẫn đến việc ban hành luật đe dọa tống tù các thủ thư.
Ít nhất cũng còn hơn 2 năm nữa mới đến ngày bầu nhiệm kỳ XIV của đảng Cộng sản Việt Nam, 2026-2031, nhưng tiêu chuẩn để được chọn đã bộc lộ tư duy giáo điều, bảo thủ và chậm tiến của đảng CSVN...
Cuộc phỏng vấn được thực hiện với 2 người Chăm: Ông Thông Thanh Khánh (Khanh Pham), nhà nghiên cứu văn hóa Chăm. Sinh trưởng tại Ma Lâm huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh Bình Thuận, hiện đang sống và làm việc tại Sài Gòn và Cambodia. Và Ông Lưu Quang Sáng (Amuchandra Luu), sinh tại Phan Rang, hiện sống và làm việc tại California, Thạc sĩ toán và có gần 20 năm giảng dạy ở trường đại học cộng đồng tại thủ phủ Sacramento, California, Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký hội Bảo Tồn Văn Hóa Truyền Thống Champa USA, qua 7 nhiệm kỳ chủ tịch...
Để khẳng định đối trọng với các cường quốc phương Tây, khối BRICS đặc biệt tìm cách củng cố vị thế trong các cơ quan quốc tế và trọng lực của đồng Nhân dân tệ trong hệ thống tiền tệ. Tự thoát ra khỏi ảnh hưởng của các cường quốc phương Tây và tạo thành một lực lượng kinh tế và địa chính trị mới, đây là mong muốn được khối BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi) bày tỏ tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 15, được tổ chức tại Johannesburg, Nam Phi, từ ngày 22-24/8/2023. Đây cũng là những gì nổi lên tại Hội nghị G77 được kết thúc vào ngày 16/9 tại Havana.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.