Hôm nay,  

Góp Ý Với Ông Võ Văn Thưởng: Triết Học Nào Tỏa Sáng?

30/10/202009:23:00(Xem: 5003)

 

Ông Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương của Cộng sản Việt Nam, Võ Văn Thưởng, trong đại hội thành lập Hội Triết học Việt Nam vào hạ tuần tháng 9-2020, đã nói Việt Nam “cần có những triết gia tầm cỡ”.

Ông cho rằng, “Việt Nam chưa có nền triết học sánh ngang với triết học Hy Lạp - La Mã bề thế, với triết học Ấn Độ sâu sắc, với triết học Trung Hoa thâm thúy, hay với triết học duy lý của Tây Âu nhưng Việt Nam bên cạnh nền văn hóa vật thể ẩn chứa vô vàn những triết lý hành động, còn có nền văn hóa văn - sử - triết bất phân, có sự kết hợp tinh tế giữa các loại hình văn hóa với tư duy tín ngưỡng dân tộc…”

Nhiên, Nhân, Dân thống nhất

Trong thời đại nhân loại hội nhập vào chung trong ngôi làng toàn cầu, nhất là nhờ những ngành khảo cổ, nhân chủng, di truyền hiện đại, người ta dễ nhận ra những điểm nổi trội như nhân loại (nhân) là một, phát xuất từ Phi châu ra toàn cầu, nhưng dân tộc (dân) thì nhiều. Qua giai đoạn thuộc địa thụt lùi, thất bại mang danh nghĩa phương Tây đi khai phá và khai hóa thế giới, cũng như qua hai cuộc Thế chiến và Chiến tranh Lạnh gây tang thương đổ vỡ khốc liệt cho thế giới, người ta cũng dễ thấy rằng tương quan giữa nhândân nói trên không thể là tương quan giữa thống trị và bị trị, giữa da màu này là thượng đẳng, màu nọ là hạ cấp, hay nước này là trung tâm, nước kia là man di mọi rợ, hoặc tranh chấp nhau vai trò bá chủ cường quyền.

Tương quan giữa nhândân và giữa các dân tộc, khu vực với nhau là quan hệ hỗ tương, bình đẳng, tôn trọng, cùng giúp nhau vui sống và tiến bộ trong một môi trường trong lành (nhiên), không phải là tranh chấp triệt tiêu, hơn thua, mà là đối lập thống nhất (unity in diversity).

Vậy muốn có những “triết gia tầm cỡ”, phải có tầm nhìn mang tính tầm cỡ thế giới, nhân loại và thời đại như thế. Nói khác đi, phải có tầm nhìn nhiên, nhân, dân thống nhất.

Ngoài ra, còn phải có những ‘thống nhất’ và đặt lại tiền đề cho triết học như dưới đây.

Tâm, Vật, Sinh thống nhất

Dân Việt với nếp sống nông nghiệp trải hàng nghìn, hàng vạn năm, nương nhờ vào thiên nhiên, thời tiết, mưa thuận gió hoà mà cày cấy, nước rất quan trọng cho đời sống nông dân (nhất nước, nhì phân...). Nước không cố định ở hình thức nào mà thích hợp với mọi hoàn cảnh, ở ao thì ngưng, ở sông thì chảy (ở bầu thì tròn, ở ống thì dài). Nước dễ dàng dung hoá, dung nạp tất cả (đường, muối) nhưng vẫn giữ được bản chất nước của mình. Người Việt gọi nơi cộng đồng mình quần tụ, sinh sống là “nước” (Việt Nam).

Đất trời mây nước đã ảnh hưởng đến nếp sống, nếp nghĩ của người Việt, khiến tư duy của họ không bị đóng khung, gắn chặt vào một hệ thống tư tưởng, tín ngưỡng hay chủ nghĩa nào. Có lẽ nhờ thế mà tinh thần tổng hợp của người Việt rất cao (tam giáo đồng nguyên) và họ cũng dễ dàng hoà hợp với tự nhiên.

Thiên nhiên, đất trời cần thiết cho sự sống, nhưng con người cũng góp phần cải tạo tự nhiên để đời sống ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn (dẫn thuỷ nhập điền, đắp đập ngăn sông…). Dân Việt thấy được vị trí của mình giữa trời đất (thiên - nhân - địa). Nhờ vậy, tinh thần nhân chủ của họ rõ nét (có trời mà cũng có ta), chứ không phải tất cả đều do trời định đoạt. Trời (tâm) cũng như đất (vật) đều cần thiết cho sự sống (sinh) con người. Tâm, vật, sinh cần được thống nhất.

Phương Tây với cuộc tranh chấp giữa tâm (duy tâm) và vật (duy vật) trong các thế kỷ trước, kéo dài sang tranh chấp tả hữu tư bản - cộng sản của Chiến tranh Lạnh đã gây bao tai họa khủng khiếp cho nhân loại mà dân Việt, có thể nói đã chịu đựng nhiều đau thương oan trái nhất trong cuộc tương tranh quốc tế đó, vì con người chưa nhận ra được sự thống nhất giữa hai mặt đối lập vật-tâm kia.

Nếu vẫn còn bị gắn chặt vào triết lý một chiều, không thấy được tính thống nhất cần thiết của cả tâm lẫn vật trong đời sống, không trở về với tinh thần nhân chủ của con người giữa trời cao đất rộng như cha ông Việt đã thể nghiệm và thực hiện, không thể sản sinh ra nền triết học tầm cỡ nào, mà chỉ là triết học khiếm khuyết sai lầm cần được bổ túc.

Nghiêng về thiên (tâm) thì người bị đẩy xuống hàng thứ yếu vì thần là chủ, người trở thành tôi tớ hèn mọn bé nhỏ. Nghiêng về địa (vật) thì người bị chà đạp vì vật chất là chủ, con người giành giựt phương tiện sản xuất, áp dụng quy luật đầy thiên kiến lượng đổi chất đổi, đẩy tới cao điểm là các giai tầng xã hội chém giết lẫn nhau.

Cả hai đều tha hoá con người, triệt tiêu tinh thần nhân chủ, mất tính hướng đạo cuộc sống như Stephen Hawking khẳng định “Triết học đã chết” trong cuốn Grand Design của ông.

Sử, Khoa, Triết thống nhất với con người là tiền đề triết học

Sử học nghiên cứu quá khứ, khoa học cho hiện tại và triết học mở đường hướng tới tương lai. Muốn mở ra con đường đúng đắn cho nhân loại, triết học phải bám sát thực tại đời sống, lấy con người làm tiền đề (không nghiêng lệch tâm-vật, tả-hữu), diễn tả được chân lý của tự nhiên, của dân tộc và nhân loại trong tầm nhìn về vũ trụ quan, nhân sinh quan và xã hội quan, nhận ra mối quan hệ của chúng để người được sống như người, là người (nhân đạo - đời sống người). Đó không phải là lối sống tranh giành, mạnh được yếu thua của động vật để nhân loại tiến hoá hướng thượng luôn mãi.

Vũ trụ và sự hình thành của tự nhiên là đối tượng nghiên cứu của khoa học. Khoa học khám phá tới đâu, sức hiểu biết của con người mở rộng tới đó. Các khoa học gia cho rằng vũ trụ được hình thành từ vụ nổ Big Bang. Vậy vũ trụ là gì trước Big Bang? Nhà vật lý nổi tiếng Stephen Hawking trả lời rằng, nếu đi ngược thời gian tới ngay trước khi có Big Bang khoảng 13.8 tỉ năm trước, vũ trụ thoạt đầu nhỏ như một nguyên tử, chỉ có nhiệt và năng lượng, thời gian không hiện hữu (… time… literally did not exist). Những gì xảy ra ngay trước Big Bang không thể xác định được. Nếu thời gian đã không hiện hữu, không thể có câu trả lời cho câu hỏi chuyện gì đã xảy ra ngay trước đó. Nói cách khác, đây là vấn đề bất khả luận. Vũ trụ quan đúng đắn khi nhìn vào tự nhiên thấy mang tính vô nguyên tương đối. Vật chất chỉ có tính tương đối, như nước có lúc ở thể lỏng, thể đặc hay thể hơi.

Hạnh phúc của đời sống là gì? Phải chăng là nước này xâm chiếm nước kia, là ngai vàng vua chúa cha truyền con nối? Phải chăng đó là quan hệ giữa bạch chủ với hắc nô mà số phận ‘hắc nô’ đã được quyền lực siêu hình định đoạt, không thể thay đổi? Hoặc của giai cấp công nhân nhân danh chủ nghĩa Cộng sản tiêu diệt các giai cấp khác, chối bỏ dân tộc để tiến đến đại đồng? Hạnh phúc phải chăng là một thiểu số giàu có tìm cách khống chế và lũng đoạn tất cả, tạo ra chiến tranh để buôn bán vũ khí, hoặc của bầu cử tự do nhưng kèm theo tiền bạc tài phiệt đổ vào truyền thông nhằm dẫn dắt dư luận, hay đổ vào quảng cáo đánh bóng ứng viên phe mình, triệt hạ uy tín phe kia? Phải chăng hạnh phúc là văn minh phương Tây với luật La Mã, triết Hy Lạp cần được phổ cập khắp thế giới?

Mỗi dân tộc có lịch sử và văn hoá đặc thù cần được tôn trọng, không thể cho rằng da trắng là thượng đẳng hay Hán tộc là trung tâm. Xã hội quan đúng đắn cho các dân tộcđa nguyên tương đối.

Chỉ Ngườinhất nguyên tuyệt đối, mọi người trên trái đất đều sinh ra bình đẳng với nhau như bọc mẹ trăm con. Tuy nhất nguyên những mỗi người mỗi tính, mỗi dân tộc có đời sống đặc thù cần được tôn trọng.

Bài học hàng nghìn năm từ quá khứ chém giết nhau nhân loại còn chưa thông, sang tới hiện tại các cường quốc vẫn tranh nhau ngôi bá chủ, làm thế nào để thế giới vui sống hoà bình bên nhau? Ba môn Sử, Khoa, Triết vẫn chưa có sợi dây xuyên suốt nhất quán.

Các triết thuyết lớn gần đây ảnh hưởng tới cả nhân loại chưa thấy được Người mới đích thực là tiền đề triết học. Duy tâm cho rằng ý niệm tuyệt đối là cơ sở của mọi sự vật tồn tại. Marx lật ngược lập luận đó, cho rằng vật chất sản sinh ra tinh thần tuyệt đối kia. Cả hai đều không nhận ra rằng con người bao gồm cả tâm lẫn vật. Không có người, đất trời hiện hữu từ muôn thuở cũng thành vô nghĩa.

Lịch sử, văn hoá Việt với nền văn minh nông nghiệp nên người Việt dễ hoà hợp với thiên nhiên, thấy được vị trí của người ngang hàng cùng trời đất, tâm hồn rộng mở không lụy vào một tư duy thiên lệch nào nên tinh thần nhân chủ và tính tổng hợp khá cao.

Lý Đông A (1920-1946?), nhà tư tưởng Việt bị cộng sản sát hại, người thực hiện cuộc đại tổng hợp văn minh kim cổ đông tây trong bộ Quốc Sách Đại Cương Thảo Án Toàn Pho của ông, đã khám phá và đề xuất rằng Người mới chính là tiền đề triết học.

Kết

Việt Nam có chu kỳ lịch sử năm trăm năm: 500 năm thịnh, 500 năm suy. Dân tộc ta đang ở cuối thời kỳ suy thoái năm trăm năm vừa qua (hậu Lê, Nguyễn, Tây thuộc, Cộng sản thuộc), đang tiến dần vào giai đoạn chuyển tiếp sang 500 năm hưng thịnh sẽ tới (Đại Việt 2000).

Thời tiền hưng thịnh Đại Việt 1000, cha ông đã tổng hợp và thống nhất những chia rẽ về chính trị (thập nhị sứ quân) và văn hoá (du nhập tam giáo, đạo thống Tiên Rồng lu mờ) nhằm sáng tạo ra mô hình kiến thiết mới cho Đại Việt Lý-Trần. Tương tự như vậy, từ thời Pháp thuộc (Tây phương thuộc) đến cộng sản thuộc (cũng từ phương Tây đến), hiện chúng ta lại đang bị chia rẽ do hậu quả của quốc tế phân tranh, vừa về chính trị (quốc-cộng, kinh-thượng) lẫn văn hoá (chia rẽ tôn giáo, bản sắc dân tộc, đạo thống Tiên Rồng chìm nghỉm và bị triệt tiêu bởi chủ nghĩa Mác Lê).

Giai đoạn vừa qua đầy nhiễu nhương nhưng cũng tạo ra cơ hội mới. Trên phương diện địa lý, cha ông ta đã tiến về phương Nam tới tận mũi Cà Mau, nay lại có thêm cả một cộng đồng người Việt đang lớn mạnh tại hải ngoại. Về mặt văn hoá, ngoài việc hoà nhập văn hoá Chàm và Chân Lạp, chúng ta còn tiếp thu thêm văn hoá phương Tây. Nhiều nền văn minh lớn qua đạo giáo đã hội tụ tại Việt Nam: Phật, Lão, Khổng Đông phương, Cơ đốc giáo Tây phương; các quốc gia hùng mạnh cũng đã góp mặt: Trung, Pháp, Mỹ, Nga, Nhật.

Những người cộng sản cần phải nhanh chóng thức tỉnh, thấy được trào lưu thế giới, nhân loại và thời đại mà mạnh mẽ dứt khoát từ bỏ Mác-Lê-Mao, vượt trên tranh chấp quốc tế hoá do tư bản lẫn cộng sản để lại (quốc-cộng), cùng nhau tổng hợp văn hoá Đông-Tây kim-cổ, kết hợp với đạo thống Tiên Rồng như cha ông nhằm sáng tạo một mô hình kiến thiết mới, khắc phục những khuyết điểm của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội kiểu cộng sản, đưa đất nước thoát khỏi bế tắc hiện nay để bắt đầu cất cánh, tiến đến giai đoạn khởi đầu cho năm trăm năm hưng thịnh sắp tới.

Chỉ có thế Việt Nam mới xây dựng được một nền triết học mang tầm cỡ thế giới.

Tạ Dzu

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.