Hôm nay,  

Luận Về Chính Sách Thuế Khóa

23/11/201908:26:51(Xem: 3720)

Luận về

CHÍNH SÁCH THUẾ KHÓA
 

Trần Xuân Thời
 

Thuế là giá mà mỗi người có lợi tức và tài sản phải trả để được thụ hưởng những tiện ích của đời sống văn minh. Hoa Kỳ là quốc gia có nền văn minh cao nhất thế giới và một hệ thống thuế khóa phức tạp nhất thế giới.

Đi lâu mới biết đường dài, sống lâu mới biết con người phải chăng. Chưa có bộ luật nào ở Hoa Kỳ ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến quần chúng bằng bộ Luật Thuế Lợi Tức Nội Địa (Internal Revenue Code) của Hoa Kỳ.

 Ngoài luật Liên Bang, 50 Tiểu bang đều có luật lệ thuế khóa riêng biệt, và trong mỗi tiểu bang, các County, các City đều có các văn kiện lập quy, ấn định các loại thuế, lệ phí tùy nhu cầu của mỗi địa phương.

Riêng thuế lợi tức hằng năm, khoảng 150 triệu người khai thuế lợi tức cá nhân và khoảng 8 triệu tổ chức khai thuế lợi tức kinh danh cho các Tiểu Bang và Liên Bang tại Hoa Kỳ.  Do đó người ta thường nói ở Hoa Kỳ có hai điều chắc chắn là mọi người lần lượt đều phải chết và mọi người có lợi tức đều phải đóng thuế (death & tax). Thật là chạy trời cũng không khỏi nắng.

Luật thuế khóa càng phức tạp đạo binh “khai thuế” ở Hoa Kỳ càng đông đảo. Hàng triệu tư nhân, công ty lớn nhỏ thuê hàng chục ngàn luật sư, kế toán gia công chứng và chuyên viên kế toán đảm trách phần hành tài chánh và khai thuế. Vì luật lệ thuế khóa quá phức tạp và thường được tu chỉnh để đáp ứng nhu cầu phát triển về kinh tế, nên thường xảy ra vấn đề khai sai thuế mặc dầu hằng năm các Bộ Thuế Khóa Tiểu Bang phối hợp với Sở Thuế Liên Bang (Internal Revenue Service-IRS) tổ chức các khóa tu nghiệp trên toàn quốc. Trung bình nếu cứ thanh tra 100 hồ sơ thuế, khoảng 10% hồ sơ cần được điều chỉnh, nên đạo binh “sửa sai” của chính phủ Liên Bang và các Tiểu bang cũng thật khổng lồ. Riêng IRS có khoảng 80 ngàn nhân viên chuyên trách về quản trị và thanh tra. Ngoài ra mỗi tiểu bang có một bộ Thuế Vụ (Deparment of Revenue/Taxation) có từ khoảng 200 đến 7,000 nhân viên, tuỳ tiểu bang lớn hay nhỏ, đặc trách quản trị, hành thu thuế và thanh tra, chưa kể đến nhân viên chuyên trách về các loai lệ phí ở cấp County và City...

Ngân sách nhiều Tiểu bang và Liên bang đang trong cơn khủng hoảng thâm thụt. Số lượng thanh tra thuế vụ càng gia tăng để hành thu và truy thu số thuế bị thất thu. Theo ước lượng của Cơ Quan Thuế Vụ Liên Bang, thì số thuế Liên Bang thất thu trên 100 tỉ hằng năm, và khoảng 113 tỉ cho năm 1992. Nếu toàn dụng nhân lực thanh tra và truy thu hết số thuế thất thu thì chỉ trong vòng 3 năm, ngân sách Liên Bang đang thâm thụt trên 300 tỷ sẽ được quân bình! Đến nay 2015, ngân sách Liên Bang thiếu hụt đến 18, 000 tỷ Mỹ Kim. Tại mỗi Tiểu Bang số thuế thất thu tùy tiểu bang lớn nhỏ, từ 500 triệu đến 10 tỷ hằng năm. Số thuế thất thu ước lượng này bao gồm cả thuế lợi tức công ty (corporate income tax) và thuế lợi tức cá nhân (individual income tax), kể cả các loại thuế tiêu thụ khác.

Sự thất thu do nhiều nguyên nhân, hoặc vì cá nhân, công ty áp dụng sai luật lệ hiện hành hoặc vì cố ý trốn thuế (tax evasion). Về thuế cá nhân, phương thức trốn thuế có thể không khai đúng số lợi tức thu được (under reporting of income), khai gia tăng chi phí, chước giảm khấu trừ (overstatement of deductions/exemptions), không khai thuế (failure to file a return), hoặc khai nhưng không trả thuế...

Ví dụ về man khai: Kể từ năm 1987, để đo lường mức độ man khai phần “personal exemptions” dành cho thân nhân mà người thọ thuế phải chu cấp, Sở Thuế Liên Bang đã áp dụng biện pháp buộc người khai phải ghi rõ số An Sinh Xã Hội (Social Security number/ss#) vào hồ sơ khai thuế. Sau khi kiểm soát, IRS nhận thấy giảm sút 7 triệu “personal exemptions” so với những năm trước. Trong 20 năm qua nhiều người đã khai gia súc như chó, mèo, chim... là “dependents” để giảm thuế. Cũng như ngày trước ở Việt Nam, con cái chưa sinh mà đã nộp hình, làm giấy khai sinh trước để lãnh trợ cấp. “Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ!” Một số người Việt cũng khai chồng, vợ và con cái ở VN là dependents, khi hỏi đến SS# thì không có, tuy vậy vì không có gian ý nên thường được tha thứ vì lý do nhân đạo. Có những cặp vợ chồng ly dị, một đứa con mà khai hai nơi khác nhau. Các trường hợp này đều bị phát hiện, và trong năm 1990, 1RS truy thu được gần 3 tỷ bạc chỉ liên quan đến khoản “personal/dependent exemptions”.

Đa số những người trốn thuế là những người hành nghề tự do (self-employed) như luật sư, bác sĩ, chiêu đải viên và những người làm việc nhận tiền mặt (cash) không đóng thuế Social Security và sinh sống nhờ trợ cấp an sinh (welfare), vì khai lợi tức sợ bị chấm dứt welfare.

Trong năm 1990 1RS đã truy tố trên 2,500 phạm nhân trốn thuế trong đó có 165 quân nhân, 82 luật sư và thẩm phán, 35 kỷ sư, 26 kê toán viên công chứng, 18 bác sĩ, 14 cảnh sát... Có trường hợp một giáo sư trường luật 10 năm không khai thuế, thế mới biết “tri và hành có khi bất nhất”. Đây không phải là vấn đề thiếu hiểu biết hay kiến thức mà là vấn đề luân lý xã hội (ethics). Thế nên Hoa Kỳ nên đặt lại vấn đề “Tiên học lễ, hậu học văn” như Văn Lang ta đã làm trên bốn ngàn năm văn hiến trước 1975.

Trốn thuế (tax evasion), cố ý man khai thuế (fraudulent document), đều thuộc về hình sự, bị phạt cả tiền lẫn tù, hoặc một trong hai hình phạt.... (Chapter 68, IRC)

Những lý do viện dẫn để biện hộ hành vi trốn thuế cũng khá nhiều: hoặc vì không đồng ý với các chương trình chi tiêu của chính phủ hoặc vì theo cấm kỵ của tôn giáo dựa trên quyền tự do ngôn luận và tự do tôn giáo của Tu Chính Án I, Hiến Pháp Hoa Kỳ. Những người trốn thuế và chống thanh tra thuế cho rằng thanh tra, bắt xuất trình sổ sách là vi phạm Tu Chính Án thứ 4 “against unreasonable search and seizure” hoặc “invasion of privacy”. Hoặc họ dựa trên Tu Chính Án thứ 5 “self-incrimination”, các người này thường nộp bản khai thuế trống (blank return) và đề “object - Fifth Amendment right against self-incrimination”. Họ nghĩ rằng khai thuế là “một hình thức thú tội” tự ý và có thể bị truy tố vì lời khai của mình. Lại nữa họ cho là luật thuế bất công vi phạm “due process clause và equal protection clause” của Tu Chính Án 5 và 14. Các người trốn thuế cũng biện bác rằng luật buộc phải giữ sổ sách là vi phạm khoản cấm “involuntary service” của Tu Chính Án thứ 13, hoặc vi phạm Tu Chính Án thứ 16, vì Luật thuế không được tất cả các Tiểu bang phê chuẩn... các luận cứ này đều bị Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ bác khước.

Thuế lợi tức công ty phức tạp hơn thuế lợi tức cá nhân. Có những bộ thuế vài chục trang, cũng có bộ thuế cả ngàn trang, tùy theo mức độ kinh doanh tại địa phương, trong phạm vi tiểu bang, (state) liên bang (multistate) hay quốc tế (multinational). Có những đại công ty có hằng trăm chi nhánh trên toàn thế giới, trả hằng trăm triệu tiền thuế cho chính phủ. Ngoài thuế liên bang, các đại công ty này phải trả cho các tiểu bang một loại thuế liên hợp quốc nội và quôc tế cho các tiểu bang. Loại thuế này rất phức tạp và gặp nhiều chống đối. Tiểu bang California và một số tiểu bang khác tước đây có loại thuế liên hợp quốc tế (Worldwide Unitary Business Income Tax) đã gặp nhiều chống đối của các công ty ngoại quốc có chi nhánh kinh doanh tại Hoa Kỳ, khiến cho chính phủ Reagan phải lập ủy ban nghiên cứu và đề nghị thay đổi loại thuế liên hợp quốc tế.

Một số lớn tiểu bang khác đang áp dụng loại thuế liên hợp quốc nội (Domestic Unitary Business Income Tax) đánh thuế trên lợi tức của công ty và chi nhánh hoạt động tại quốc nội và quốc ngoại (multinational corporations). Thanh tra tiểu bang về ngành thuế liên hợp này phải đi khắp các tiểu bang để thanh tra.  Thanh tra thường có hai phần, phần thứ nhất là dựa trên luật lệ hiện hành để quyết định (unitary determination) xem thử công ty bị thanh tra có phải đóng loại thuế liên hợp này không. Phần thứ hai là điều chỉnh sự sai biệt theo phương pháp đánh thuế liên hợp và sự sai biệt giữa luật thuế tiểu bang và liên bang. Ngược lại, thanh tra liên bang thì vì IRS chia làm nhiều khu trên toàn quốc nên chỉ thanh tra trong tiểu bang, hoặc các tiểu bang lân cận trong vùng quản hạt.

Về phương diện kỹ thuật thanh tra, thanh tra thuế liên hợp là phần phức tạp nhất hiện nay. Nếu có sự bất đồng ý kiến giữa quyết định của thanh tra và ý kiến của ban quản trị của công ty, sự tranh chấp sẽ do các Bộ Thuế Tiểu Bang hoặc IRS tự giải quyết. Nếu không đồng ý, sự tranh chấp sẽ do Tòa Án Thuế từ cấp tiểu bang đến Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ xét xử. Ví dụ Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã phán xét trong vụ án Container Corporation of America v. Franchise Tax Board, 463 us. 159 (1983), là luật California hợp hiến và tiểu bang này có quyền đánh thuế trên lợi tức kinh doanh tại quốc nội và quốc ngoại của công ty Container.

Luật lệ thuế hiện hành là kết tinh của hơn 200 năm lập quốc, mặc dù từ 1646 những người di dân dưới chế độ Anh Hoàng đã bắt đầu ấn định các loại thuế. Thuế lợi tức lũy tiến (progressive tax) đã bắt đầu ban hành từ thời Nội chiến và nguyên tắc thuế lũy tiến được áp dụng cho đến ngày nay. Lũy tiến (progressive) có thể hiểu là lợi tức thọ thuế (taxable income) gia tăng thì thuế suầt (tax rate) gia tăng tùy theo mức gia tăng của lợi tức, dựa vào khả năng trả thuế của người thọ thuế.

Hai chính đảng Dân Chủ và Cộng Hòa có hai qụan niệm khác nhau về chính sách thuế khóa và thuế Luỹ Tiến cũng đã chia người thọ thuế ra làm hai phe, phe Dân Chủ (Démocrat), ủng hộ thuế lũy tiến và phe Cộng Hòa (Republican) chống đối. Họ cho rằng cố gắng làm việc để kiếm lợi tức càng cao, thuế má càng tăng, là một hình phạt đối với người kinh doanh. Hơn nữa thuế quá cao sẽ làm nản chí đầu tư, do đó không khích lệ được sự phát triển kinh doanh. Phe chống đối đã thành công yêu cầu Toà tuyên án Bộ Thuế Lợi Tức năm 1894 vi hiến (unconstituional) vì là một loại thuế trực thu (direct tax) nhưng không áp dụng đúng nguyên tắc do Hiến Pháp quy định (Pollock v. Farmers Loans and Trash Co., 1895).

Tuy nhiên, đảng Dân Chủ vẫn áp lực ban hành thuế lợi tức, nên đến năm 1909 Bộ thuế Lợi Tức lại được ban hành. Thuế lợi tức công ty theo luật 1909 là một loại thuế gián thu (excise tax). Thuế đánh trên đặc ân được phép lập công ty và kinh doanh (franchise) nên không vi hiến (Flint v. Stone Tracy Co., 1911)

Hiến pháp Hoa Kỳ quy định thuế trực thu phải được quân phân giữa các tiểu bang theo mực độ dân số. Điều khoản này đã gây trở ngại cho vấn đề an ninh và quốc phòng. Do đó Tu Chính Án 16, được phê chuẩn ngày 25 tháng 2 năm 1913, quy định lại “The Congress shall have the power to lay and collect taxes on incomes from whatever sources derived, without apportionment among several states, and without regard to any census or enumerations”.

Chính sách thuế khóa thường được thay đổi để hòa nhịp với chính sách của chính đảng lên nắm quyền và để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Trong các cuộc bầu cử vừa qua, ứng viên đảng Cộng Hòa nhất định không tăng thuế. Dân chúng Mỹ vẫn sợ sưu cao thuế nặng nên dồn phiếu cho Đảng Cộng Hòa trong suốt thập niên 80 và mới đây năm 2016. Thế mới biết “Khôn cũng chết, mà dại cũng chết, biết thì sống”. Biết tâm lý quần chúng mới có thể nắm được vận mệnh quốc gia, hầu có thể thi hành triết lý chính trị của mình.

Bộ Thuế Nội Điạ Hoa Kỳ (Internal Revenue Code) được tu chình dưới thời TT Reagan năm 1986, hơn 30 năm sau, TT Trump ban hành luât “Tax Cuts and Jobs Act” (TCJA) tu chính IRS Code ngaỳ 22 tháng 12, 2017, có hiêu lực từ năm 2018

Luât thuế TCJA giảm thuế suất cho thuế cá nhân và cho thuế lợi tức kinh doanh, nhằm giảm bớt gánh nặng thuế khoá, gia tăng tiết kiệm để khích lệ đầu tư.  Luât TCJA giảm bớt thuế lợi túc cá nhân qua nhiều biện pháp khác nhau nhưng vẫn áp dụng thuế luỹ tiến từ 10% đến 37% theo mức gia tăng của lợi tức chịu thuế.

Về Thuế Kinh doanh (Corpotate Income Tax), luật TCJA bỏ thuế luỹ tiến từ 15%. (cho lợi tức từ 0 đến 50,000); 25% (cho lợi tức từ 50,000 đến 75,000) và 35% cho lợi tức chịu thuế trên 75,000. Luật thuế TCJA áp dụng thuề suất đồng hạng (flat rate) 21%. Nhờ thuế suất giảm, các công ty dã đem lợi tức kinh doanh tích trử tại ngoại quốc (repatriated earnings) về Hoa Ký về để gia tăng lương bổng cho nhân viên, bành trướng cơ sở kinh doanh, gia tăng sản xuát, thu dụng nhân công, khiến tỷ số thất nghiệp giảm, tình trạng kính tế quốc gia khởi sắc. Khi nguòi dân có công ăn việc làm, lợi tức gia đình gia tăng, nến kinh tế chổi dậy, mãi lực (purchase power) gia tăng, hăng hoá được tiêu thụ nhanh chóng, phồn thịnh. dân giàu nước mạnh.

 Nhiêù công ty kinh doanh lớn Hoa kỳ có hằng chục, hằng trăm công ty chi nhánh hoạt động taị ngoại quốc. Tính đến năm 2016, tổng số lợi tức kinh doanh tại ngoại quốc của các công ty Hoa Kỳ lến đến 2.6 ngàn tỷ Mỷ Kim. Các công ty giữ sô vốn tại ngoại quốc, vì nếu đem về Mỹ sẽ bị đánh thuế quá cao (35%) nên không đem vốn về Mỹ để đấu tư. Thêm vào đó, vì sưu cao thuế nặng nên môt số lớn công ty tại Mỹ di chuyển ra ngoại quốc đề kiếm lợi, nhờ giá nhân công rẽ và thuế suất thấp, khiến cho nhân công ở Mỹ thất nghiệp. Ngược lại các công ty ngoại quốc giảm đấu tư tại Hoa Kỳ vì không sinh lợi. Thât ra, thuê ở Hoa kỳ trước đây không cao nhưng vi thuế suất các quốc gia khác giảm theo thời gian và vấn đề cải tổ thuế phức tạp nên Hoa Kỳ đã cải tổ thuế trong thởi TT Reagan năm 1986, mãi đển hơn 30 năm sau năm 2017 TT Trump mới ban hành luật thuế mới. Tax Cuts and Job Act 2017.

Tàu Cộng, sau khi khi gia nhập WTO, từ hơn 20 năm nay, đã tung hàng hoá giá rẻ vaò thi trường Mỷ khiến cho một số doanh nghiệp Mỹ khai bankruptcy gia tăng. Đến năm 2013 trên 44, 000 công ty kinh doanh Mỹ khai khánh kiệt. Tỷ số nhân công thất nghiệp gia tăng. Số hàng hoá Mỹ xuất cảng thấp và hàng nhập cảng quá cao, sai biệt đến 532 tỷ Mỹ Kim.  

Trước tình trạng khó khăn như vậy, nếu chính quyền TT Trump không “nội công, ngoại kích” Hoa Kỳ sẽ chết vi Tầu công (death by China). Tàu Cộng đang thực hiện dự án bá chủ hoàn cấu, một vành, đai, một con đường, mưu đồ chiếm cứ hải đaò, kiểm soát biển đông, gây trở ngại cho hành trình giao thông, hàng hải quốc tế với hoạch 2025. Taù cộng đang mở rộng thương trường qua Phi Châu, Úc Châu, Âu Châu, Mỹ Châu và các nước lân bang, nhất là các nuớc chậm tiến, nhằm khai thác khoáng chất, dầu hoả, khí đốt, dùng bầy nợ để chíếm cứ đất đai ở Campuchia, Phi Châu.... 

Trong cuộc tranh cử 2016, đảng CH chủ trưởng “Make America Great Again”. chủ trương dân tuý, tăng cường sức mạnh nôi bộ Hoa Kỳ và ảnh hưởng trên chính trường quốc tế về quân sự, chính trị, tài chánh, ngoại giao; kết hiệp với các quốc gia đồng minh chống kế hoạch bành trướng của Tàu Cộng.

Hai giới thọ thuế chính hiện nay là công ty kinh doanh và công dân có lợi tức. Cứ mỗi lần caỉ tổ thuế khoá, hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ thường phải cân nhắc kỷ lưỡng đối tượng tăng thuế hay giảm thuế: Tăng thuế trên lợi tức cá nhân (Individual income tax), giới tiêu thụ (consumption/sales tax) hay tăng thuế trên lợi tức công ty (corporate income tax), giới sản xuất. Đó là một quyết định chính trị quan trọng ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế quốc gia. Do đó, trước khi ban hành luật thuế mới, chính phủ cần nghiên cứu kỷ lưỡng ảnh hưỏng của chính sách thuế khóa đối với đời sống kinh tế quốc nội, quốc ngoại, kể cả ảnh hưởng đến vấn đề thu hút đầu tư của ngoại quốc vào Hoa Kỳ.

Thí dụ luật thuế năm 1981 cho công ty khấu trừ phần chiết cựu gia tốc (ACRS) như là chi phí để giảm lợi tức chịu thuế, thêm vào khoản đã được khấu trừ về tín chỉ đầu tư (ITC). Số đầu tư ngoại quốc vào Hoa Kỳ gia tăng và thu dụng trên 1 triệu nhân công. Theo nguyên tắc chung của nền kinh tế thì cứ giảm đầu tư một tỷ mỹ kim, 5 ngàn nhân công sẽ thất nghiệp. Tỷ số giữa nhân dụng và đầu tư tăng theo tỷ lệ thuận. Đầu tư càng nhiều, kinh tế sẽ phát triển và số nhân công được thu dụng càng cao. Nếu chính phủ giảm thuế thì cá nhân và công ty để dành đươc nhiều lợi tức. Người Tây phương không mua vàng chôn xuống đất để dành mà “để dành để đấu tư”, nhờ đó nền kính tế được phát triển,  toàn dụng nhân công. Mỗi khi nền kinh tế phát triển thì chính phủ thu được nhièu thuế tạo nên tình trạng trong ấm ngoài êm, dân giàu nước mạnh.

 Trước đây, hãng sản xuất xe GM đã di chuyển một cơ sở sản xuất xuống Nam Mỹ, khiến cho gần 10 ngàn công nhân thất nghiệp và cả thành phố Flint, tiểu bang Michigan hầu như bị tê liệt. Luật thuế 1981 đã làm gia tăng đầu tư ở quốc nội, giảm đầu tư ở quốc ngoại và các công ty ngoại quốc đã đổ vốn vào đầu tư tại Hoa Kỳ. Mức nhân dụng gia tăng, nạn thất nghiệp giảm, tổng sản lượng quốc nội (Gross Domestic Product/ GDP) gia tăng nhờ đó nền kinh tế Hoa Kỳ đã phục hồi công lực trong thời Tổng Thống Reagan (1981-1988) sau giai đoạn suy thoái dưới thời Tổng Thống Carter (1976-1980)

Về tâm lý quần chúng, nhiều học giả đã thực hiện nhiều cuộc nghiên cứu để tìm hiểu quan điểm của quần chúng về chính sách thuế khóa hiện hành. Theo Joseph Minarik của Viện The Urban Institute of Washington thì quần chúng nghĩ rằng những kẻ khôn khéo thì tránh thuế một cách hợp pháp, những kẻ bất lương thì trốn thuế phi pháp, còn lại đại đa số hạng trung lưu thì lãnh đủ sưu thuế nặng “People believe that the clever can avoid tax and the dishonest can evade it, leaving the average citizen to carry the whole load”.

Về phương diện chính trị, đảng Cộng Hòa chủ trương không tăng thuế “Read my lips, no tax" (Pres. Bush) trong khi đó đảng Dân Chủ chủ trương tăng thuế. Sự tranh luận giữa hai chủ trương này đã đem lại nhiều kết quả dung hòa giữa đôi bên thể hiện qua các lần tu chính bộ Thuế Lợi Tức Nội Địa. Chi tiết có thể thay đổi nhưng nguyên tắc chung của hai đảng vẫn nhắm đến phát triển nền kinh tế, dân giàu nuớc mạnh.  Danh từ Internal Revenue Code (IRC) đã được dùng từ năm 1924 nhằm san định lại các luật lệ liên quan đến thuế khóa từ truớc. Lần tu chính gần nhất năm 1986 (The 1986 Tax Reform Act) đã thể hiện chiều hướng mới trong chính sách cải cách thuế khóa.

Luật Thuế Canh Cải năm 1986 do đảng Công Hoà đề xướng duới thời TT Reagan, nhằm mục đích quân bình gánh nặng thuế khóa (tax burden) giữa giới sản xuất và giới tiêu thụ dựa trên nguyên tắc thuế lũy tiến (progressivity). Thuế Lủy tiến có nghĩa là lợi tức càng lớn thì thuế suất càng cao, hay đánh thuế tùy theo khả năng trả thuế (ability to pay) của người thọ thuế. Thường lợi tức cao thì khả năng thọ thuế lớn. Do đó, mà người giàu và các công ty phải trả thuế cao hơn giới bình dân. Sự quân bình gánh nặng thuế khóa nhằm giảm bớt sự bất quân bình kinh tế giữa người giàu và người nghèo.

Cái khó là nếu đánh thuế quá cao các công ty kinh doanh hay người giàu có thì các công ty di chuyển ra ngoại quốc, đến các nước có giá nhân công thấp như Á châu hay châu Mỹ La Tinh hay Canada thì nhân công ở Hoa kỳ thất nghiệp như tình trạng thành phồ Flint thượng dẫn. Nếu các công ty lớn giảm đầu tư vì sưu cao thuế nặng thì đạo binh thất nghiệp gia tăng và số ngưởi hưởng trợ cấp gia tăng tạo nên gánh nặng cho chính phủ phải vở nợ, ngân sách thâm thủng (deficit). Trong những trường hợp như vây, chính phủ dù CH hay DC phải cải tổ chính sách thuế khóa để cứu vãn nền kinh tế quốc gia.

Tuy nhiên, ý niệm lũy tiến không phải là một ý niệm giản dị. Trả thuế còn mang ý nghĩa hy sinh (sacrifice) về phần người thọ thuế nghĩa là hy sinh một phần lợi tức của mình cho sự phát triển tiện ích chung, kể cả cho những người không đóng thuế, những ngưởi hưởng trợ cấp xã hội, những nguời thất nghiệp, kể cả những người hưu trí có lợi tức thấp. Nhưng sự hy sinh, muốn có ý nghĩa phải đặt trên căn bản hy sinh đồng đều (equal sacrifice).

Làm thế nào để đạt được công bình thuế khóa nếu không có sự hy sinh đồng đều giữa mọi người thọ thuế. Bằng vào nhận định này, và dựa trên thống kê hiện nay, chúng ta chưa đạt đến mức quân bình thuế khóa, như sẽ bàn thêm trong phần thuế tiểu bang. Lý do là tương đối người giàu vẫn phải trả thuế ít, và người nghèo trả thuế cao so với mức lợi tức.

Đi xa hơn nữa, ý niệm “hy sinh đồng đều” còn là một ý niệm vừa khách quan, vừa chủ quan, mà mỗi người có thể hiểu một cách khác nhau. Người giàu thì phung phí “Thiên kim mãi nhất tiếu - Đem ngàn vnàg chuốc lấy trận cười”- độ hữu dụng biên tế đồng tiền thấp. Nhưng ngược lại, có thể người nghèo vì “chạy ăn từng bửa toát mồ hôi” nên quý đồng tiền, do đó độ hữu dụng biên tế (marginal uitilty) của đồng tiền cao. 

Thánh Kinh cũng đã nói về dụ ngôn người góa phụ với nhận xét là “A few pennies from a poor woman’s threadbare purse cost her more than many pieces of gold taken from a rich man’s full cache”. Do đó rất khó để đạt đến ý niệm hy sinh đồng đều. Nói một cách tổng quát thì càng nhiều tiền thì độ hữu dụng biên tế đồng tiền (marginal utility) càng thấp. Ngược lại càng ít tiền thì độ hữu dụng biên tế đồng tiền càng cao.

Để tiến đến sự quân bình thuế khóa, luật thuế mới đã gia tăng phần miễn giảm cá nhân (personal exemption). Một hình thức phụ cấp gia đình bằng cách giảm thuế trên đầu người, hơạc gia tăng khấu trừ định chuẩn (standard deduction), đồng thời với sự giảm thuế suất (tax rate). IRS đã dựa trên hồ sơ khai thuế để phân hạng lợi tức của nhân dân Hoa Kỳ, thống kê về lợi tức (Statistics of Income) và nghiên cứu sự thay đổi hằng năm để biết tình trạng phân phối lợi tức giữa các tầng lớp dân chúng, từ thượng lưu cho đến hạ lưu của giai cấp xã hội. Hoa kỳ là môt quốc gia giàu mạnh không phải căn cứ vào số người giàu sang, tỷ phú mà chính là đạt căn bản vaò giới trung lưu.

            Người ta thường phân quần chúng ra làm 6 hạng hay giai cấp xã hội: Thượng thượng lưu, Thượng lưu; Thượng Trung lưu, Trung Lưu; Thượng hạ lưu và Hạ lưu, để nghiên cứu thị trường (marketing research) trước khi sản xuất và phân phối hàng hóa. Nhờ vậy mà người ta dự ước được số người có lợi tức thấp khỏi phải đóng thuế nhờ các chước giảm nêu trên. Tuy vậy, luật thuế cũng gia tăng căn bản thuế (tax base) nghĩa là nhiều thứ lợi tức được cộng vào để làm căn bản tính thuế mà trước đây được miễn.

Luật Thuế Cải Cách năm 1986, vừa hạ thuế suất trên lợi tức kinh doanh, vừa chuyển tái gánh nặng thuế từ lợi tức thuế cá nhân qua thuế công ty, giới sản xuất (supply- side). Tăng thuế lợi tức kinh doanh bằng cách hủy bỏ hoặc giảm các khấu trừ mà trước đây các công ty kinh doanh được hưởng để giảm lợi tức thọ thuế... Ví dụ, luật sửa đổi phương pháp chiết cựu gia tốc (ACRS), bỏ phần tín chỉ đầu tư (ITC)...

Luật thuế năm 2017 gia tăng các khoản giảm/ miễn thuế, nhằm hạ thấp lợi tức thụ thuế (taxable income) cho cá nhân như gia tăng phần khấu trừ định chuẩn (standard deduction) vả nhiêù điêù khỏa khác, đồng thời giảm thế kinh doanh từ thuế luỹ tiến từ 15%, 25% ...đến 37% xuống thuế suất đồng hạng 21 % (flat rate). để thu hút đầu tư, giúp cho nên kinh tế phát triền sau thời gian thoái hoá và có thể áp dụng thuế suất này đến năm 2025 ...

Huy chương nào cũng có mặt trái, thuốc trị bệnh nào cũng có phản ứng. Nếu càng gia tăng thuế công ty như một sống người chủ trương, thương gia nhận thấy không có lợi, giảm phần đầu tư kinh doanh. Các công ty Mỹ có khuynh hướng đầu tư ra ngoại quốc. Các công ty ngoại quốc giảm hoặc ngưng đầu tư ở Mỹ. Các hiện tượng này rất dễ nhận thấy mỗi khi thuế kinh doanh gia tăng. Cho nên cũng đừng lấy làm lạ vì mấy năm trước đây người ta thường bàn đến hiện tượng suy thoái và nạn thất nghiệp có phần gia tăng. Quốc Hội đưa ra dự luật gia tăng tiền trợ cấp thất nghiệp thay vì chỉ trợ cấp 26 tuần. Tuy nhiên những trở ngại này chỉ là “side effect” không ảnh hưởng trầm trọng đến sự phát triển chung của nên kinh tế trong trường kỳ.

Luật lệ thuế khóa, ngoài ảnh hưởng về phương diện kinh tế, còn ảnh hưỏng về phương diện xã hội như khai “Joint return” sẽ trả thuế thấp hơn khai “single return”; khấu trừ cho “two earner couple”, và các loại miễn giảm khác, là những phương thức khích lệ hôn nhân và thành lập gia đình, mua nhà .v.v. như tiền lời trên mortgage ( interest expenses on mortgage) được trừ thuế... Luật thuế 2017 chỉ cho khấu trử mortgage interest expenses trên nợ mortgage nguyên thuỷ khi tậu ngôi nhà ( acquisition debt) và không cho trừ  interest expenses trên số tiền refinance (equity debt). Thuế suất cũng còn gây ảnh hưởng đến mức độ nhân dụng. Cũng có trường hợp thuế suất cao khiến cho một số người “giàu hay đủ ăn” bỏ thị trường nhân dụng, không đi làm việc thêm, làm nhiều đóng thuế cao vô ích, nghỉ ở nhà chơi cho phẻ!

Ngày nay, nhiều người đề nghị đánh thuế tiêu thụ thay vì thuế lợi tức (Income v. Expenditure Tax). Tuy vậy nếu xét về khía cạnh kỹ thuật, thuế lợi tức có nhiều ưu điểm hơn thuế tiêu thụ, hơn nữa căn cứ vào lợi tức dễ phát hiện khả năng thọ thuế hơn là mức tiêu thụ.

Ngoài ra người ta cũng đề cập đến thuế trị giá gia tăng (Value added Tax). Nhược điểm của loại thuế này là thay vì lũy tiến thì ngược lại và tạo nên bất công, trút gánh nặng thuế khóa lên đầu lên cổ của đa số bần dân có lợi tức thấp “The value-added tax is regressive and imposes unnecessarily heavy burdens on the lower income classes”, (Pechman). Do đó thuế trị giá gia tăng chỉ là một giải pháp hạng bét mà những người có chút lương tri không thể nhắm mắt áp dụng “It would be unconscionable to enact the distinctly inferior alternative of a value-added tax”. Chúng ta cũng thường nghe đến thuế trị giá gia tăng ở VN trước năm 1975.

Các chính quyền Cộng Hòa thường cố gắng trở lại chủ thuyết Federalism, quan niệm chính quyền Tiểu Bang chẳng những tự trị mà còn phải tự túc về ngân sách. Do đó chính phủ Liên Bang tìm cách giảm trợ cấp, chuyển nhượng phần quốc gia đài thọ cho ngân sách tiểu bang. Các tiểu bang tu chính lại chính sách thuế khóa, và sửa đổi các chương trình trợ cấp an sinh. Các chính quyền Dân chủ chủ trương ngược lại, nhưng có một số tiểu bang không muốn nhận trợ cấp của Liên bang để tránh sự can dự của Liên bang vào chính sách tự quản của tiểu bang vì thế mà thỉnh thoảng baó chí cũng đề cập đế vấn đề nấy.

Vấn đề công bình thuế khóa cấp Tiểu Bang.

Theo thống kê thi trong thời gian qua, 4 tiểu bang California, Delaware, Maine và Vermont áp dụng tương đối nghiêm chỉnh nguyên tắc thuế lũy tiến, nghĩa là người giàu phải trả thuế cao hơn giới trung lưu. Các Tiểu bang khác thuế suất cho giới trung lưu tương đối cao hơn giới thượng lưu.

Mười tiểu bang được mệnh danh là “Terrible Ten” đánh thuế giới trung lưu và hạ lưu cao gấp ba lần thuế đánh trên giới thượng lưu. Các Tiểu bang terrible này là: Nevada, Texas, Florida, Washington, South Dakota, Tennessee, Wyoming, New Hampshire, Pennsylvania và Illinois. Phân tích kỹ thì đa sô' các tiểu bang thuộc “Terrible Ten” không đánh thuế lợi tức cá nhân (individual income tax) nhưng bần dân phải đóng thuế cao gấp 3 lần hơn người giàu có chỉ vì thuế tiêu thụ (comsumption taxes) phải trả khi mua nhu yếu phẩm rất cao như ở Washington, Texas, Nebraska, Illinois, hoặc thuế gia cư địa ốc (Real estate/ property tax) vô địch như ở New Hampshire. Tiểu bang Washington không có thuế lợi tức cá nhân nhưng lại là một tiểu bang thuế tổng gộp địa phương cao nhất tại Mỹ đối với giới bình dân, có kki lên đến 17.4%, trong lúc đó, tiểu bang giáp giới là Oregon thuế suất chỉ thay đổi trên , dưới 9.9%. Sau đó là Tiểu bang Texas, cũng không có thuế lợi tức cá nhân, nhưng thuế tiêu thụ chung trên nhu yếu phẩm có khi lên đến 17%. Giới hạ lưu đã mang bệnh nghèo mà còn phải ho ra bạc, khạc ra tiền để trả thuế (cough up an extra cent for tax payment)!

Sáu tiểu bang áp dụng chính sách thuế khóa tương đối công bình, người giàu trả nhiều thuế hơn người nghèo như Vermont, Delaware, Hawaii, Minnesota, Maryland và Oregon.

Trong những năm gần đây, nhiêu tiểu bang đã gia tăng thuế tiêu thụ trên nhiên liệu, hàng hóa, thuốc lá, rượu, đăng bộ xe tự động, nhằm cứu vản tình trạng ngân sách thâm thủng. Nếu không tăng thuế thì phải giảm dịch vụ cung cấp cho quần chúng. Bốn Tiểu Bang Hawaii, Vermont, Utah và Minnesota duy trì thuế suất thấp đối với người nghèo và tăng thuế đối vối người giàu. Một số tiểu bang khác tăng thuế người nghèo và giảm thuế cho người giàu như Connecticut, Nevada, West Virginia, So. Dakota, Tennessee.

Các dữ kiện nêu trên theo thống kê qua các thời kỳ cho chúng ta thấy đại khái sự khác biệt về chính sách thuế khóa giữa các tiểu bang. Trong nhiều tiểu bang, người giàu vẫn có ba đầu sáu tay để thao túng quốc hội tiểu bang ban hành luật lệ có lợi cho họ. Người nghèo vẫn là “vạn tội bất như bần”, vẫn thấp cổ bé miệng, thật khó lòng có thể chuyển bại thành thắng.

Tuy nhiên, đặc điểm của xã hội dân chủ là xem “ý dân như ý trời”, nên cứ “lớn tiếng, la làng” kêu nài, hẳn có người nghe, hầu đánh thức lương tri các nhà lập pháp như phong trào nhân quyền đã tranh đấu và thành công.

Giải thích kỹ thuật khai thuế và áp dụng luật thuế khóa để khai đúng thuế là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự hiểu biết chuyên khoa về cả hai ngành kinh doanh như kinh tế, tài chánh và luật. Các chuyên viên thường am hiểu các nguyên tắc về kế toán, tài chánh để phân tích và hiểu các ý niệm, đồng thời nắm vững phương pháp tường trình lợi tức và kiến thức về luật học để nắm vững luật thuế khóa, luật hiến pháp, hình luật... Nhưng luật mà không có căn bản về kế toán thường gặp trở ngại nếu hành nghề liên quan đến thuế. Ngược lại học kế toán, tài chánh, kinh tế mà thiếu luật thì cũng gặp trở ngại khi phải đi xa hơn phần kỹ thuật khai thuế và tường trình tài chánh.

Thảo luận về chính sách thuế khóa lại càng phức tạp hơn vì thế chỉ luận về phần tổng quát, khó mà ghi nhận hết các chi tiết và ngoài phần kiến thức vê kế toán và luật cần thêm kiến thức về kinh doanh và kinh tế khi phân tích những ý niệm về lũy tiến, ảnh hưởng của thuế khóa trên chính sách nhân dụng, đầu tư quốc nội và quốc ngoại, đầu tư của ngoại quốc trên thị trường Hoa kỳ, giá trị đồng mỹ kim, và ảnh hưởng của thuế khóa trên cán cân chi phó, lạm phát, tiết kiệm... là những vấn đề cần nghiên cứu kỹ lưỡng và mất nhiều thời gian.

Thuế là giá phải trả để thụ hưởng đời sống văn minh (price of civilization) như thẩm phán Home đã nhận xét. Chính phủ cần tiền để có thể cung cấp những dịch vụ chung cho quần chúng. Cũng có những người không làm ra tiền, nhưng vẫn hưởng được tiện ích của đời sống văn minh nhờ công lao của những người khác dang làm việc và đóng thuế để giúp giới hưu trí có tiền trợ cấp hay tiền an sinh xã hội và tiền hưu bổng qua chương trình Social Security, public assistance cho những người công nhân hưu trí và những người thiếu lợi tức.

Chúng ta làm việc không những tăng lợi tức cá nhân và còn cung cấp tiện ích cho những người không làm việc qua số thuế mà chúng đóng hằng năm. Ngược lại, khi chúng ta nghỉ việc, chúng ta lại hưởng tiện ích do những công dân khác đóng góp.  Cơ chế xã hội văn minh được cấu tạo bằng sự đóng góp từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nhờ đó sinh hoạt xã hội văn minh được liên tục và mỗi ngày một tiến bộ. Tất cả đều trông nhờ vào sự “hy sinh” của mỗi công dân.

Trên đây là nhận định chung, có thể nói là “Truyền nhi bất tác”, nếu cần thêm chi tiết xin tham khaỏ với các chuyên gia thuế vụ về chi tiết của Luật TCJA 2017.

Vần đề thi hành nghĩa vụ công dân về phương diện thuế khóa hiện nay vẫn dựa trên nguyên tắc tự nguyện (voluntary compliance). Theo thống kê thì khoảng 80% người thọ thuế tự nguyện đóng thuế hằng năm. Tuy vậy, vì số thanh tra quá ít so với số người đóng thuế nên tỷ số thanh tra còn rất thấp, trung bình 1% trên tổng số hồ sơ thuế. Đa số chỉ thanh tra các công ty lớn, hoặc những người có lợi tức cao. Đối vối giới bình dân, nếu có khai sai chút đỉnh, sở thuế thường tự động sửa và thông báo cho người thọ thuế.

Luật lệ ở Hoa Kỳ được áp dụng khá nghiêm chỉnh. Ngay cả đến Phó Tổng Thống Agnew, trong thời TT Nixon, nguyên Thống đốc Maryland, mà cũng bị tòa phạt vì trốn thuế, bị mất chức Phó Tổng Thống và bị treo áo cấm hành nghề luật sư, đúng với câu

                                                         “Pháp bất vị thân” vậy.

 

Trần Xuân Thời

-----------------------

Ghi chú: Thuế suất trên lợi tức kinh doanh (1909-2018)

The maximum tax rates below are the rates paid on the highest income levels.

Please note that the definition of income changes frequently. 

Business Income Tax Rate/ Year / Max Tax Rate / President / Comments 

 1909

   1%

Taft

 

 1916

   2%

Wilson

Reduced tariffs and raised corporate

 1917

   6%

 

U.S. entered WWI

 1918

 12%

 

Taxes raised to finance WWI

 1919

 10%

 

WWI ended

 1922

 12.5%

Harding

Lowered income tax and raised corporate

 1925

 13%

Coolidge

Reduced income tax, raised corporate

 1926

 13.5%

 

Recession

 1928

 12%

 

Recession ended

 1929

 11%

Hoover

Tax cut triggered stock market crash

 1930

 12%

 

Dust Bowl started

 1932

 13.8%

 

Tax hikes to stop speculation worsened depression.

 1936

 15%

FDR 

Hike revived depression

 1938

 19%

 

Dust Bowl ended

 1940

 24%

 

Hike to finance WWII

 1941

 31%

 

Pearl Harbor

 1942

 40%

 

Hikes to pay for WWII

 1950

 38%

Truman

Cut to fight recession

 1951

 50.75%

 

Hike to fund Korean War

 1952

 52%

Eisenhower

No cuts, despite 1953 and 1957 recessions.

 1964

 50%

LBJ 

Implemented JFK's tax cut

 1965

 48%

 

Cut boosted economy

 1968

 52.8%

 

Hikes paid for Great Society and Vietnam War

 1970

 49.2%

Nixon

Recession

 1971

 48%

 

Cut to fight recession

 1979

 46%

Carter

Cut to offset high interest rates

 1987

 40%

Reagan

Tax Reform Act

 1988

 34%

 

Cut to fight recession.

 1993

 35%

Clinton

Omnibus Budget Reconciliation Act

 2018

 21%

Trump

Tax Act goes into effect

Sources for Table: "Corporate Tax Rates 1909-2018," IRS; "Corporate Tax Rate and Jobs," ProCon.org.



 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Việt Nam, năm 2006 ghi nhận hai sự kiện quan trọng nổi bật. Một là, Việt Nam được gia nhập WTO. Hai là, tổng thống Hoa Kỳ George Bush sang thăm Việt Nam nhân Hội nghị APEC 14
Sáng nay tiết trời Hà nội lạnh, không khí bị phủ một lớp sương mờ, không có ánh mặt trời. Ngày đầu tiên của năm 2007
Nhưng nếu không có sự đụng chạm giữa các nền văn minh, thế giới chúng ta cũng đang đối đối đầu trước một sự đụng chạm khác. Học giả Dominique Moĩsi, một cố vấn thâm niên của
Thời gian thắm thoát trôi, mới đó mà đã 22 năm kể từ ngày các Anh vĩnh viễn ra đi. Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại có rất nhiều đổi thay, nhưng các anh nào có biết! Hôm nay nhân ngày giỗ
tôi mong là từ năm nay, Hà Nội nên có chính sách văn minh hơn với người dân của mình. Đó là bình thường hóa quan hệ với người Việt Nam chứ đừng chỉ có sợ người ngoại quốc...
Gerald R. Ford, tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ, lên nắm quyền sau khi Tổng Thống Richard Nixon 
Tổng thống Ford là một người tử tế. Nhưng thiếu mưu mô... Trong một số báo đầu năm, chúng ta nên nói về chuyện tử tế. Không có gì tử tế hơn là nói về nhân vật đang được quốc táng
Căn cứ Khe Sanh nằm lọt giữa một thung lũng, các ngọn đồi bao bọc chung quanh, do đó đây không hẳn là một vị trí có thể quan sát bao quát hết các vị trí địch.
Vấn đề dự án xây Chùa Quan Âm tại Garden Grove đã trở thành một đề tài được đề cập đến
Sau tang lễ của Tổng thống Gerald Ford, Quốc hội mới của Hoa Kỳ bị quăng lên đùi một miếng thịt không ai muốn nhá. Thịt của súc vật được sản sinh theo lối sao bản vô tính hay nhân bản vô sinh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.