Hôm nay,  

Abenomics Mất Tác Dụng, Kinh Tế Nhật Bên Bờ Vực Suy Thoái

20/11/201900:00:00(Xem: 2099)

Ông Shinzo Abe có thể sẽ trở thành vị Thủ tướng cầm quyền lâu nhất của Nhật Bản, nhưng ông cũng có thể chứng kiến nền kinh tế đất nước rơi vào một cuộc suy thoái mà chiến lược chấn hưng tăng trưởng Abenomics của ông khó lòng xoay chuyển được tình thế.

Khoảng giữa tháng 11/2019, số liệu công bố cho thấy kinh tế Nhật Bản đạt tốc độ tăng trưởng yếu nhất trong 1 năm trong Quý 3, khi thương chiến Mỹ-Trung và nhu cầu toàn cầu suy giảm gây thiệt hại cho hoạt động xuất khẩu của đất nước.

Dùng chính sách tiền tệ hay tài khóa?

Theo trang Reuters, đang có một sự đồng thuận gia tăng trong giới chuyên gia rằng kinh tế Nhật sẽ tăng trưởng âm trong Quý 4 2019, khi người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi việc tăng thuế tiêu thụ và tác động tiêu cực của thương chiến Mỹ-Trung lan rộng hơn. Các chuyên gia kinh tế được Reuters khảo sát dự báo kinh tế Nhật Bản suy giảm 2.5% trong Quý 4 2019 và hồi phục với mức tăng 0.6% trong Quý 1 2020, đủ để thoát một cuộc suy thoái.

Ông Kozo Yamamoto, một nhân vật có ảnh hưởng trong Đảng Dân chủ tự do (LDP) cầm quyền của ông Abe, phát biểu: “Nguy cơ kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái là rất lớn”. Một câu hỏi đặt ra lúc này là điều gì có thể giúp kinh tế Nhật tránh khỏi nguy cơ đó?

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (Bank of Japan) không có nhiều dư địa để hành động sau nhiều năm quyết liệt nới lỏng chính sách.

Ông Yamamoto cho rằng câu trả lời có thể là Chính phủ Nhật tăng chi tiêu: “Chính phủ phải phát hành thêm trái phiếu để chi tiêu. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản có thể mua số trái phiếu đó”, và cho rằng ông Abe cần soạn thảo một kế hoạch ngân sách bổ sung ít nhất 5,000 tỷ Yên, tương đương 46 tỷ USD.

Nhưng Chính phủ Nhật bị hạn chế trong việc tăng chi tiêu công bởi đất nước đang mang gánh nặng nợ nần lớn nhất trong số các quốc gia công nghiệp phát triển. Chưa kể, Nhật Bản còn thiếu lao động phổ thông để thực hiện các dự án công. Đầu tư cơ sở hạ tầng của Nhật Bản có thể giảm xuống sau Thế vận hội Tokyo 2020, trong lúc Chính phủ đang chật vật thúc đẩy cải cách cơ cấu trong nền kinh tế.

Hiệu ứng Abenomics nhạt dần

Thực tế cho thấy, nhiều năm liên tiếp chi tiêu công mạnh tay và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản quyết liệt in tiền để bơm vào nền kinh tế cũng không đủ sức đưa lạm phát ở Nhật Bản đạt mục tiêu 2% mà ngân hàng đã đề ra. Thay vào đó, các nhà hoạch định chính sách ở Tokyo giờ đây hầu như chẳng còn phương tiện hữu hiệu nào để chống chọi với cuộc suy thoái tiếp theo xảy đến với nền kinh tế lớn thứ ba thế giới.

Sau khi lên cầm quyền vào cuối năm 2012, ông Abe vào năm 2013 đã công bố Abenomics với 3 "mũi tên" nhằm đưa kinh tế Nhật thoát khỏi nhiều thập kỷ tăng trưởng trì trệ, bao gồm nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng chi tiêu chính phủ và cải cách cơ cấu. Cho đến hiện tại, chiến lược chấn hưng tăng trưởng của ông Abe đã giúp tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Nhật Bản tăng thêm tổng cộng 8.6%.

Ngoài ra, đồng Yên giảm giá, một phần nhờ Abenomics, đã mang lại lợi nhuận tốt hơn cho các công ty xuất khẩu Nhật Bản. Năm 2018, giá cổ phiếu của các nhà xuất khẩu hàng đầu Nhật Bản đạt mức cao nhất 27 năm. Nhưng đến 2019, những hiệu ứng tích cực đó của Abenomics đã nhạt dần.

Tháng 10/2019, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản giữ nguyên lãi suất cho dù rủi ro từ môi trường bên ngoài gia tăng. Thống đốc Ngân hàng Haruhiko Kuroda nói rằng B Ngân hàng Trung ương Nhật Bản có thể hạ tiếp tục nới lỏng chính sách nếu cần thiết, nhưng sẽ thận trọng với những hiệu ứng tiêu cực ngày càng lớn của việc nới lỏng kéo dài, chẳng hạn ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng.

Thay vào đó, ở Nhật Bản cũng như tại nhiều nền kinh tế khác, giới phân tích đang tập trung nhiều hơn vào việc chính sách tài khóa có thể làm gì để kích thích tăng trưởng. Thống đốc Kuroda cũng cho rằng chi tiêu công có thể đóng một vai trò lớn hơn trong việc kích cầu, trong lúc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản giữ lãi suất cho vay ở mức thấp.

Rào cản từ lực lượng lao động

Ông Kuroda nói: “Nếu Chính phủ nhận thấy sự cần thiết phải sử dụng chính sách tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng, sự kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ sẽ có nhiều tác dụng hơn là triển khai riêng rẽ các biện pháp tài khóa và tiền tệ”.

 

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ Nhật Bản cũng không còn nhiều dư địa để tăng mạnh chi tiêu công. Nợ công của họ đã lớn gấp đôi quy mô của nền kinh tế. Ngoài ra, giới phân tích cũng nghi ngờ về tác dụng mà việc tăng chi tiêu công có thể mang lại cho kinh tế Nhật hiện nay.

Một số nghị sĩ Nhật Bản kêu gọi chi 5-10,000 tỷ Yên cho một gói kích thích kinh tế nữa mà ông Abe đang yêu cầu nội các của ông soạn thảo. Nhưng nhiều nhà phân tích nói một gói kích cầu như vậy chưa chắc đã có tác dụng gì. Từ năm 2013 đến 2019, Chính phủ của ông Abe đã chi gần 30,000 tỷ Yên cho 4 gói kích cầu như vậy, mà hiệu quả đối với nền kinh tế chẳng đáng là bao. Một vấn đề lớn chính là việc các dự án công của Nhật Bản rất khó thực hiện do tình trạng thiếu lao động ngày càng nghiêm trọng, một phần do dân số lão hóa.

Các nhà phê bình cho rằng chính quyền của ông Abe dành nhiều năm cố kích thích nền kinh tế bằng chính sách tiền tệ chưa từng có tiền lệ chỉ nhằm mục đích trì hoãn việc cải tổ thị trường lao động và những biện pháp tăng cường năng lực cạnh tranh cho Nhật Bản trong lĩnh vực sáng tạo công nghệ.

Ông Kouhei Ohtsuka, một cựu quan chức Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, hiện là một thành viên đảng đối lập, phát biểu: “Nhật Bản đã tự nhấn chìm mình trong những chính sách kinh tế vĩ mô cũ kỹ mà không chịu thay đổi để thích nghi với những thay đổi nhanh chóng trong môi trường toàn cầu”. Ông đặc biệt lo ngại về việc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản tiếp tục in tiền để mua trái phiếu do Chính phủ Nhật Bản phát hành, cho rằng cách làm này lặp lại chính sách không hiệu quả mà Tokyo đã theo đuổi mấy thập kỷ qua. Ông nhận định: “Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã sử dụng cách làm như hiện nay từ nhiều năm trước. Hiện nay, chính sách như vậy rất vô vọng”.

 

Nguoivietphone.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.