Thế là gã thành thi sĩ, sau bao nhiêu năm đăng rải rác trên báo. Giờ gã in riêng cho mình một tập. Bạn bè, người thân chúc mừng nhiều lắm. Gã không thật sự biết mình vui hay buồn. Trong lòng gã tự nhủ:
-Người ta thành thương gia nghiệp chủ, ông nọ bà kia. Mình cứ quẩn quanh với mớ chữ nghĩa có làm chi nên đời! Người ta thành đạt, vợ con sung sướng nở mày nở mặt. Mình thì chỉ làm vợ con thêm bận lòng: “Ông suốt ngày mơ mộng thơ thẩn” hoặc là: “Bài naỳ ông viết cho con nào?”… đaị loaị như thế!
Nhưng người ta cũng bảo: “Nghiệp chữ”, đã là nghiệp thì dù muốn hay không cũng không thể tránh. Nghiệp là kết quả tạo tác, mình không thể chối từ. Mình đã sanh vào cõi Sa Bà này thì cuộc trăm năm này cũng lý thú lắm chứ! Với những kẻ mang nghiệp chữ thì cuộc trăm năm này là một cuộc rong chơi đầy cảm hứng. Người ta bảo gã là nhà thơ, gã không dám nhận, chỉ đơn giản là một gã du tử rong chơi mà thôi, chỉ đơn giản là một tay mang nghiệp chữ tài tử mà thôi! Gã rong chơi cuối trời phương ngoaị, tháng năm quên đi, đôi khi chỉ là kẻ vớt lấy làn hương, chỉ là kẻ múc mảnh trăng đáy nước! Sẽ có người bảo:” Hương làm sao vớt? trăng đáy nước làm sao múc?” ấy mà vớt được, ấy mà múc được, bởi vì những kẻ du tử mang nghiệp chữ “ biết” cách. Nếu không “vớt”, không “múc” được làm sao họ có thể viết cho đời những bài thơ hay, những câu tuyệt cú… Kẻ du tử rong chơi trời phương ngoaị nhớ về cố quận. Cố quận oằn mình núi rừng loang lổ, sông ngoì, biển cả…ô nhiễm trầm trọng, khí trời cũng không còn trong lành để thở nữa. Muôn loaì trên rừng dưới biển bị tàn sát không thương tiếc. vật đã thế, môi trường đã thế thì con người làm sao an. Cho dù có sống trong những biệt phủ nguy nga nhưng đồng loại bất an một mình an được sao? Giặc phương Bắc như tằm ăn dâu, vẫn ngày đêm xâm thực. Kẻ du tử lòng đau nhưng không thể làm gì hơn được, thế thì những vần thơ, những bài văn laị là sóng âm khêu gợi lòng người!
Năm xưa khi đánh giặc Tống bên bờ sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt viết thơ thần. Ngài đã thể hiện “nghiệp chữ” trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng một cách tuyệt vời. Thơ thần như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Khi đánh đuổi được giặc Minh. Nguyễn trãi ( một đaị du tử) đã viết Bình Ngô Đaị Cáo. Một áng văn tuyệt tác vô tiền khoáng hậu. Nguyễn Trãi phô bày nghiệp chữ một cách trác tuyệt. Bình Ngô Đaị Cáo là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Việt! Nghìn năm phong kiến vốn trọng văn khinh võ coi thường kinh kỹ…Có lẽ đó là thời kỳ huy hoàng của kẻ mang nghiệp chữ. Bởi vậy dân gian mới bảo:
Văn thì tứ phẩm đã sang
Võ thì nhị phẩm còn mang gươm hầu
Hoặc như kẻ “Du tử” Lý Bạch thì quả thật xưa nay chưa hề thấy: Y là kẻ thư sinh, uống rượu làm thơ ấy vậy mà được thái uý cởi giày, tể tướng mài mực cho, đã thế còn được kim bài uống rượu suốt đời không phải trả tiền! Bên trời Tây thì những kẻ mang nghiệp chữ cũng vinh quang không kém. Bọn du tử với nghiệp chữ được giới quy tộc, triều đình nuôi dưỡng. Bọn họ chỉ mỗi việc uống rượu và viết thơ, nhạc ngợi ca, trong vô số những bài tụng ca có không ít những tuyệt tác vượt thời gian!
Thời gian như nước chảy mây bay, như hoa rơi diệp lạc… mình đến rồi cũng sẽ đi mau thôi, những tháng ngày rong ruổi có đôi khi níu kéo một vầng mây trắng mà ca ngợi đời này, có đôi khi lắng lòng nghe hơi thở đất trời, có đôi khi chia sẻ với tiếng đời bất hạnh…Cánh chim bay qua bầu trời không lưu dấu vết nhưng đã có những kẻ du tử giữ hộ rồi. Hết mùa thì hoa tàn hương tận nhưng những kẻ mang nghiệp chữ đã kịp lưu laị cho đời. Những kẻ rong chơi ở giữa con đường bất tận quên tháng ngày laị là hạnh phúc, an lạc lắm thay. Nào ai hay, tâm hồn đồng điệu rung lên như tơ đàn hoà nhập với đất trời, với cung bậc thanh âm của kiếp người. Giữa con đường ấy là đường naò? đường tình, đường đạo, đường đời… sẽ mãi mãi không bao giờ đến đích, vì một khi đến đích rồi thì có còn là du tử nữa! Con đường bất tận, kẻ rong chơi giữa con đường với:” Mùa xuân phía trước miên trường phía sau”- Buì Giáng. Trên con đường những vết trầm như dấu ấn chứng in sâu trong tâm hồn, trong tim dù thời gian năm tháng có bôi xóa thế nào cũng không thể nhạt nhoà hay phai được. Những gã du tử rong chơi với tháng năm đến cõi này:
Tôi đến nơi này một sớm mai
Rong chơi kể chuyện với muôn loài
Thơ- TLTP
Những gã rong chơi kể chuyện với muôn loài hay muôn loài tâm sự với bọn họ? có ai mà biết được, chỉ có bọn họ mới biết mà thôi! Họ sống với một trời phương ngoại. Trời phương ngoại hay vùng phương ngoại ấy ở đâu? Có trên cõi đời này thật sao? Trời phương ngoại đẹp lắm, yên ả lắm. Trời phương ngoại sáng lạng và thanh khiết lắm, ở đấy không có năm tháng bao giờ, ở đấy không có những kẻ thô tục, không có bon chen, không có khổ đau…Trời phương ngoaị không phải là thiên đường, thiên thai. Trời phương ngoaị không có ở trên mặt đất này và cũng không ở ngoài thế gian này. Dù có chỉ bảo, giải thích thế nào người khác cũng không sao hiểu hay thọ hưởng được. Chỉ có tự chính bản thân mình đạt được thì mới biết vùng phương ngoaị ấy đẹp biết dường nào! Vùng phương ngoại vốn không có ở trên mặt đất này, ấy vậy mà:
Rong rêu một giải giang hà
Phần hoa chi mộ dưới tà dương huy
Say hồ điệp khúc lưu ly
Hồn hoa lay động người đi chửa về
Thơ- TLTP
Vốn không ấy thế mà có, vốn có nhưng thật laị là không, có- không vốn không là một mà cũng chẳng là hai. Người đi đâu về đâu mà phần hoa chi mộ vẫn thiết tha dưới ánh tà dương!
Thành Ất Lăng này từng bị đốt cháy và san thành bình địa trong cuộc nội chiến năm nào. Trang trại Tara ở miền Jonesboro của gia đình nàng Scarlet cũng thăng trầm theo thế cuộc. Thời gian bôi xoá và vùi lấp đi tất cả, may mà có nữ du tử Mitchell với nghiệp chữ của mình đã giữ lấy tất cả nhữnh hình ảnh, hơi thở của thành Ất lăng cho thế hệ mai sau. Nữ du tử đã đi rôì nhưng tháng năm rong chơi trong cuộc hồng trần naỳ vẫn còn mãi mãi. Vùng phương ngoaị xa xôi, vùng phương ngoại lung linh… Bảo chỉ chỗ nào làm sao ta biết, chỉ tự mình mở lấy cữa mà vào thôi! Những kẻ du tử gìn giữ lấy làn hương, vớt trăng dưới nước, chao ôi khờ khạo một cách dễ thương biết dường nào!
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 7/2018