Hôm nay,  

SỬ THI ODYSSÉE (bài 5) THI HÀO HOMÈRE: THIÊN TRƯỜNG CA BẤ́T TỬ CỦA NHÂN LOẠI

22/07/201910:12:00(Xem: 2364)

THI CA KHÚC V: CUỘC PHIÊU LƯU CỦA UY LĨNH ĐÁNH THÀNH  SI CÔN, ĐẾN LÔ TÔ PHA ĐẾ́N XỨ NGƯỜI KHỔNG LỒ ĐỘC NHÃN


TÓM LƯỢC:  Uy Lĩnh xưng danh và kể lại những gian nan từ sau khi rời thành Troa. Trước tiên quân Uy Lĩnh cập bờ biển Thạch Các, tấn ông thành Ích Ma Rốt, qua ngày hôm sau bị dân Si Côn phản công dữ dội phải rút lui. Đoàn thuyền binh bị ngược gió băng qua mũi Ma Lê, sau chín ngày lênh đênh cập vào bến xứ Lô Tô Pha. Uy Lĩnh sai ba người đi thám thính, nhưng họ được dân địa phương cho ăn trái mật nên u mê quên mất về thuyền. Uy Lĩnh tìm lại được mang về thuyền chữa trị. Đoàn thuyền lại ra đi cập vào một hòn đảo đối diện với đảo Cyclope. Uy Lĩnh cùng 12 thủy thủ thám thính. Họ khám phá ra đảo giống người khổng lồ một mắt, nhưng đã muộn họ bị khổng lồ  Độc Ly Phong giam trong hang và ăn thịt 6 người trong hai ngày. Uy Lĩnh dùng kế phục rượu và đâm cọc nhọn nung đỏ làm mù con mắt Độc Ly Phong. Ngày hôm sau Uy Lĩnh cùng 6 bạn núp dưới bụng đàn súc vật thoát ra và lùa đàn súc vật về thuyền. Thuyền lại ra xa hơn Uy Lĩnh lại xưng danh trêu chọc. Khổng lồ lại ném đá đẩy thuyền sang bờ đảo bên. Khổng lồ biết tên, cầu cha là Thần Hải Long trừng trị. Đêm đó họ đốt lửa ăn mừng và thương tiếc sáu bạn đã mất. Sáng hôm sau thuyền lại ra đi.


Lựa lời Uy Lĩnh mới rằng : 1383

An Chính Đại Đế vinh danh loài người.

Riêng Ngài muốn biết đời tôi,

Vì đâu lưu lạc phương trời đến đây.

Mười năm phiêu bạt đọa đày,

Nói lảm sao hết những ngày gian truân.

Con Vua Lã Đạt nối dòng.

Chính tôi Uy Lĩnh chiến công rạng ngời. 1390

Cõi trần cho đến cõi người,

Thành Troa chiến trận thần người đều hay.

Quê tôi An Thạch gần đây,

Thành xây đảo biếc, sóng mây bốn bề.

Mười năm tàn trận chưa về,

Kiều Ly Cơ giữ gần kề  hang sâu.

Bảy năm cung phụng khẩn cầu,

Tình tù bất tử, nhiệm mầu thanh xuân.

Phù Tiên lưu giữ lầu trang,(Circé)

Bồng Lê tiên nữ muốn cùng sánh vai. (Aiaié) 1400

Nhưng tim tôi chẳng yêu ai,

Vợ con yêu dấu, nhớ hoài mẹ cha.

Lòng quê thương nhớ bao la,

Đêm thương ngày nhớ dẫu xa muôn trùng.

Quê hương hoài vọng mơ màng,

Tha hương đau xót ngày trông đêm chờ.

Riêng Ngài mốn biết chuyện xưa,

Từ khi chiến trận thành Troa đã tàn :

Gió mùa Đông Bắc thổi sang,

Đưa đoàn thuyền chiến đến miền Si Côn,(Cicone) 1410

Thành Ích Ma Rốt trống dồn,

Cướp lương, dàn trận công đồn  vinh quang.

Chiến công tơ lụa ngọc vàng,

Bò cừu, mỹ nữ đầy thuyền viễn chinh.

Tôi khuyên quân tướng rút nhanh,

Lũ say chiến trận mặc tình chẳng nghe.

Say sưa rượu thịt ê chề,

Đắm say tửu sắc, bỏ bê ngự phòng.

Việc binh biếng nhác khinh thường,

Quân Si Côn đã hợp đồng tiến công. 1420

Âm thầm một sáng hừng đông,

Hùng binh tựa lá hoa rừng bao vây.

Than ôi thảm bại trận này,

Dớt cho bài học một ngày đớn đau.

Hại người, người hại lao đao,

Oán thù vay trả, máu đào tuôn rơi.

Si Côn dàn trận ngoài khơi,

Thuyền đồng, súng lớn rền trời pháo sang.

Binh thuyền kháng cự hai đàng,

Đến trưa trận chiến dần tàn rút quân. 1430

Thuyền ra biển cả thoát thân,

Mỗi thuyền mất sáu tinh binh chiến trường.

Căng buồm vượt thoát nguy nan,

Xa rời vùng đất lửa tàn tro bay.

Binh thuyền còn lại trong tay,

Ai còn ai mất lòng say tơi bời.

Dớt còn trừng phạt chưa thôi,

Dồn mây đuổi gió, một trời bão giông.

Biển đen, trời ngập mây vần,

Mặt trời tối nghịt, mấy tầng mây đen. 1440

Gió  giông sóng dữ triền miên,

Lá buồm bốn mảnh rách tươm tơi bời.

Hạ buồm theo nước chèo bơi,

Hai ngày đêm vượt biển khơi hãi hùng.

Bạn thuyền mệt mỏi vô cùng,

Vầng dương chào ánh rạng đông rực trời.

Bão tan sóng lặng bể khơi,

Vá buồm dựng cột, thuyền trôi nắng vàng.

Chín ngày mây nước thênh thang,

Đến vùng biển cá bạt ngàn nhảy bơi, 1450

Thuyền theo dòng hải lưu trôi,

Lô Tô Pha phủ trắng trời cát xa.(Lotophages)

Đoàn thuyền cập bãi bình sa,

Gửi ba trinh sát xem là nơi đâu ?

Hỏi xem nguồn nước nơi nào ?

Hỏi mua lương thực đổi trao bạc vàng.

Dân Lô Tô tiếp ân cần,

Mời ba khách quý trái ngon chà là,

Món ăn duy nhất vườn nhà,

Lúa mì chẳng biết, thịt thà cũng không ! 1460

Trái ngon thơm như mật ong,

Lạ thay ăn trái bỗng lòng say sưa.

Quên anh em, quên đường về,

Quên con thuyền đậu đang chờ đang trông,

Uy Lĩnh chờ mãi nóng lòng,

Huy động binh đội xung phong kiếm tìm.

Gặp họ khờ dại đầu thôn,

Ngất ngây chẳng biết, thần hồn chốn nao !

U mê chẳng biết ai nào,

Chỉ còn cách trói giam vào khoan thôi. 1470

Say say tỉnh tỉnh rã rời,

Mấy ngày chữa trị, vội dời thuyền đi.

Mịt mù biển thẳm chân mây,

Một hôm đang mới no say cơm chiều.

Đảo xa nghe tiếng dê kêu,

Tiếng người loáng thoáng, khói chiều dần lên.

Cặp thuyền vào đảo kề bên,

Chờ sang đảo lớn hỏi han sự tình.

Nơi đây có phải dân lành,

Lương khô, súc vật bạc vàng đổi trao. 1480

Bình minh xòe ngón tay đào,

Uy Lĩnh tập họp tiến vào đảo dê.

Hỡi anh em hãy lắng nghe :

Nơi đây xứ lạ, chẳng hề biết chi ?

Có tiếng dê, có tiếng người,

Văn minh, man rợ ta thời biết sao ?

Thánh thần tôn kính thế nào ?

Hay sống biệt lập như bao thú rừng ?

Đoàn thuyền lưu lại đảo con,

Một con thuyền nhỏ đi sang thăm tìm. 1490


Về sau mới biết sự tình,

Đất dân Độc Nhãn một vùng lạ thay.(Cyclopes)*

Người cao to lớn dị kỳ,

Không thần, không luật, không hay cấy trồng.

Cây hoang, trái dại đầy đồng,

Nho rừng xanh tốt, nước nguồn suối trong.

Mỗi bầy sống một góc rừng,

Ai lo thân nấy, chẳng màng chuyện ai.

Cỏ xanh bụi rậm rừng dài,

Dê đàn nhô nhúc, chẳng người đuổi săn. 1500

Sống bằng thịt sữa nuôi chăn,

Đá to thạch động vây quanh làm chuồng.

Người Độc Nhãn chẳng đóng thuyền,

Bán buôn chẳng biết, chẳng màng giao du.

Mỗi người thui thủi rừng sâu,

Gặp nhau chẳng nói, chẳng cầu việc chi.

Khổng lồ hình dáng dị kỳ,

Lông dài rậm rạp khác gì dã nhân.

Trán cao một mắt trừng trừng,

Trông càng kinh khiếp, dân tình lạ thay. 1510


Hừng đông hồng đỏ ban mai,

Uy Lĩnh cùng với mười hai tùy tùng.

Tiến sâu thám hiểm khu rừng,

Đến xem xứ sở lạ lùng ra sao ?

Núi cao thạch động bước vào,

Chủ động đi vắng nơi nao chăn bầy.

Vào hang bỗng lạ lùng thay,

Vò nung bên vách, vắt đầy sữa tươi.

Liếp lao một dãy phơi dài,

Hai hàng bánh sữa, nồng mùi men thơm. 1520

Góc hang chuồng thú hai bên,

Lớn ra thú lớn, bé vờn rơm khô.

Anh em ngỏ ý muốn vô,

Cướp đàn súc vật, lương khô mang về.

Uy Lĩnh lòng quyết chẳng nghe,

Hay chi cướp vặt bầy dê cừu này.

Rằng ta đường chính thẳng ngay,

Muốn cùng chủ động hang này hỏi thăm.

Nơi đây xứ sở lạ lùng,

Hỏi han cho biết sự tình ra sao ? 1530

Tấm lòng ưu ái cho nhau,

Chẳng cần động chủ cũng trao tặng mình.

Nào đây đốt lửa ngồi quanh,

Cầu Thần Vương đợi chủ nhân trở về.

Lửa vừa tàn ngọn đỏ hoe,

Chủ động đâu đã lê thê bước vào.

Ầm ầm bó củi đổ ào,

Đá lăn củi gỗ, đẩy vào góc hang.

Đoàn người đã trốn vội vàng,

Khổng lồ hung dữ, dềnh dàng đỏ ao. 1540

Long lanh một mắt trán cao,

Lùa đàn súc vật, ào ào thét vang.

Vác ngay tảng đá chắn ngang,

Đá to mấy chục người hòng chuyển lay.,

Bò dê vắt sữa liền tay,

Phần làm bánh sữa, phần bày uống tươi,

Bỏ thêm củi, lửa sáng soi,

Bừng bừng giận thấy bóng người cuối hang.

Ồn ào sang sảng hét vang :

Bớ lũ hai mắt vào hang lúc nào ? 1550

Chúng mi chẳng biết ta sao ?

Thừa cơ vắng mặt, bước vào động ta .

Từ đâu mà đến đảo xa,

Độc Ly Phong có biết là chốn đây ?(Polyphème)

Là dân buôn bán cầu may ?

Hay dân cướp biển đêm ngày lang thang ?

Gieo bao thảm họa kinh hoàng,

Giết người, cướp của hợp đoàn đến đây ?

Thừa cơ ta vắng nơi này,

Chúng mi ẩn náo, chực ngày cướp hôi ? 1560

Mọi người kinh hãi líu lời,

Khổng lồ quái dị nói cười sấm vang,

Uy Lĩnh dõng dạc chẳng sờn,

Trả lời động chủ chẳng màng răn đe :

Hỡi vị chủ bầy cừu dê,

Chúng tôi lạc bước, thuyền về chốn đây,

Người An Kinh phận chẳng may,(Achéens)

Thành Troa từ giả sau ngày chiến chinh,

Sóng trôi bão tố điêu linh,

Nổi trôi phiêu lạc, đường cùng đến đây. 1570

Giờ đây nơi xứ sở ngài,

Cầu xin giúp đỡ, cứu người gian truân.

Hãy vì phong tục văn minh,

Giúp người bất hạnh ân cần hỏi han.

Như lời Thần Dớt truyền răn,

Ban cho tặng vật như tình anh em.

Còn như bạc đãi ác tâm,

Dớt ra sấm sét lôi đình chẳng tha.

Dớt là Thần khách phương xa,

Giữ lòng hiếu khách, nhà nhà anh em. 1580

Khổng lồ giọng lạnh như tiền :

Hỡi tên lạ mặt, không điên cũng khùng,

Vất vơ lạc bước hang hùm.

Còn bày vẽ chuyện thần linh dọa người.

Độc Ly Phong chẳng sợ ai,

Sức này hơn hẵn gấp mười thần kia.

Chớ hòng dọa dẫm ta nghe!

Ta sẽ ăn thịt hết bè lũ bây.

Con thuyền mi buộc đâu đây ?

Để ta bắt hết cả bầy về xơi. 1590

Uy Lĩnh nhanh nhẩu trả lời :

Than ôi ! bất hạnh chúng tôi phận này,

Bão dâng sóng ngập trời mây,

Hải Long Vương giận biển này chuyển rung.

Thuyền con sóng dữ ầm ầm,

Chênh vênh sóng quật đá ngầm nát tan.

Con thuyền trăm mảnh chẳng còn,

Anh em thoát nạn mỏi mòn tàn hơi.

Khổng lồ nghe chẳng trả lời,

Xông vào chụp lấy hai người vung lên. 1600

Sọ tan, óc vọt bắn tung,

Chặt ra từng mảnh nấu cùng nồi to,

Rồi nhai ngấu nghiến xương giò,

Uống thêm một lúc mấy vò sữa dê,

Rồi lăn kềnh ngủ hả hê,

Giữa bầy súc vật, thảm thê kiếp người.

Uy Lĩnh chẳng nói nên lời,

Trào tuôn nước mắt thương người bạn thân.

Căm thù muốn tuốt gươm trần,

Đâm sâu một nhát vào tâm khổng lồ, 1610

Nhưng rồi nghĩ tảng đá to,

Không ai lay chuyển, chết khô hang này.


Hừng đông vừa đỏ chân mây,

Nắng hồng soi sáng đêm dài âu lo.

Khổng lồ dậy đốt lửa to,

Lùa dê vắt sữa đầy vò, đầy chum.

Rồi xông xồng xộc chỗ nằm,

Giết hai người nữa nấu ăn lót lòng.

Rồi lùa súc vật khỏi hang,

Lấp ngay tảng đám nhốt đoàn người trong. 1620

Tiếng dê đầu núi xa dần,

Đoàn người tìm cách thoát thân chốn này.

Lẽ nào bó gối ở đây,

Khổng lồ thịt hết kẻ này người kia.

Khẩn cầu Thần Nữ xót xa.

Ban cho mưu kế thoát qua cảnh này.

Trong hang có sẳn thân cây,

Khổng lồ mới đẵn, xếp đây để dùng,

Gỗ to như một cột buồm,

Cho thuyền lớn mấy chục thân bạn chèo. 1630

Uy Lĩnh ra lệnh làm theo,

Vót đầu gỗ nhọn, róc vèo vỏ cây.

Bếp tro hong dễ khô thay,

Dấu cây dưới lớp phân dày nền hang.

Chàng bàn cùng các đồng hành,

Sẽ cùng Uy Lĩnh việc làm gian nguy.

Thừa cơ độc nhãn ngủ say,

Đâm mù con mắt bằng cây lửa dùi.


Nắng chiều dần nhạt tàn phai,

Đồi hoang nghiêng đổ bóng dài lê thê. 1640

Độc Ly Phong bước trở về,

Lùa dê cừu béo be he núi rừng.

Chận hang với tảng đá xong,

Hắn ngồi vắt sữa đầy chum đầy vò,

Bắt hai thủy thủ béo to.

Giết ngay làm thịt ăn no chân giò.

Liếm môi xoa bụng tròn vo,

Uy Lĩnh dâng bát rượu nho vội mời:

Hỡi ngài Độc Ly Phong ơi !

Giống dòng Độc Nhãn sức thời vô song. 1650

Bữa thịt người xơi đã xong,

Mời ngài nếm thử rượu ngon loài người.

Để ngài thương xót chúng tôi,

Tha chúng tôi được về nơi quê nhà.

Tính ngài hung bạo ác ma,

Loài người kinh sợ ai mà đến đây.

Mời ngài xơi chén rượu này,

Vốn là rượu qúy của thầy Mã Long,(Maron) 

Âu Vân Tử thờ  An Long,(Évanthès)

Cháu Đi Nô Sốt, vốn Thần Rượu Nho.(Dyonysos) 1660

Vốn là sau trận thành Troa,

Thành Ich Ma Rốt toàn gia cầm tù.

Uy Lĩnh vốn trọng người tu,

Thả thầy tế tự, phụng thờ An Long.

Là Thần Ánh Sáng vạn năng.

Tên vàng, cung bạc lo chăm phụng thờ.

Đáp tình đáp nghĩa tha cho,

Mã Long trao tặng chục vò rượu tăm,

Rượu này quý hiếm vô cùng,

Pha mười cốc nước rượu còn nồng thơm. 1670

Uống vào ngọt lịm nồng nàn,

Vân du tiên cảnh, mơ màng chiêm bao.

Ấy là tuyệt tửu bồ đào.

Thắt lưng Uy Lĩnh một vò đeo bên.

Giờ đây mời Độc Ly Phong,

Uống xong một bát còn thèm xin thêm.

Chìa tay quệt miệng đã thèm :

Chà chà mới biết rượu ngon nhất đời.

Cho ta một bát nữa thôi,

Tên người gì nhỉ, ta lời cám ơn. 1680

Đặc ân quý trọng người hơn,

Cho ta biết món rượu ngon loài người.

Uy Lĩnh rót thêm bát mời.

Độc Ly Phong nốc một hơi cạn liền.

Ba lần thấm rượu say men.

Óc đầu lúy túy, lèm nhèm chơi vơi.

Uy Lĩnh cất tiếng trả lời :

Ngài đà muốn biết tôi thời xưng danh,

Nhớ lời hứa một đặc ân,

Ngài đà nói tới, chớ đành quên ngay, 1690

Tên tôi là: Chẳng Có Ai,

Mẹ cha bằng hữu ngày ngày gọi tên.

Độc Nhãn tàn nhẫn lạnh lùng :

Này này Chẳng Có Ai khùng nghe đây,

Ta sẽ ăn thịt của mày,

Cuối cùng khi chẳng có người để ăn.

Đó là vinh dự đặc ân,

Mến người đã tặng rượu thần ngon thơm, 1700

Nói rồi lảo đão vật nằm,

Mắt đờ, mặt đỏ ầm ầm ngáy vang.

Ngóc đầu nôn tháo ruột gan,

Rượu thịt lênh láng vải tràn nền hang.

Độc Ly Phong đã say mèm,

Nhẹ người ra ngủ, lăn kềnh say sưa.

Uy Lĩnh lập tức thừa cơ,

Đẩy chiếc cọc nhọn vào lò lửa nung.

Nhịp nhàng vung cọc gỗ lên,

Nhịp ba lao thẳng mắt tên khổng lồ.

Lửa hồng cọc nhọn xoáy to

Xèo xèo máu chảy như lò sắt nung. 1710

Độc Ly Phong hét điên khùng,

Điếc tai, sởn gáy, kinh hồn tiếng vang.

Năm người trốn chạy góc hang.

Đớn đau hắn rút cọc phang vào nền.

Lềnh kềnh đứng dậy thét lên :

Cứu tao, Độc Nhãn các hang cận kề.

Nghe cứu bầy khổng lồ về,

Lô nhô đứng trước lắng nghe sự tình,

Một tên cất tiếng hỏi thăm:

Độc Ly Phong hỡi, điên khùng chi đây ? 1720

Đêm hôm khuya khoắc gọi bầy,

Thức chúng tao dậy cấp nguy việc gì ?

Có ai dùng mưu trí chi,

Cho chúng tao biết, lừa mi thế nào ?

Nói chúng tao biết ra sao,

Nó làm gì đánh mi đau thế nào ?

Chúng nó sức mạnh lớn cao,

Đánh mi cướp của, bọn nào ở đâu ?

Độc Ly Phong rên đớn đau:

Bạn ơi, chẳng có kẻ nào đánh hôi. 1730

Chẳng Có Ai mưu hại tôi,

Chứ không sức mạnh nào thời làm chi.

Độc Ly Phong đáp ầm ì,

Cả bọn ngu ngốc xầm xì lao xao,

Một tên dõng dạc nói vào:

Chẳng Có Ai mạnh dày vò cướp tranh.

Chẳng Có Ai mưu hại anh,

Chắc là mê hoảng thần kinh chớ gì ?

Ấy do Thần Dớt lắm khi,

Mê hoảng, bệnh tật Dớt thì gây nên.

Chẳng ai trách được bệnh điên,

Thôi ta về ngủ mai liền đi chăn. 1740

Anh hãy cầu nguyện phụ thân,

Hải Long phù hộ bệnh tâm khỏi liền.

Cả bầy lục tục về hang,

Năm người mừng đã thoát màn nguy nan.

Nhờ trò bịa đặt đổi tên,

Mưu cao lường gạt được đàn ngốc ngu.

Độc Ly Phong rên đớn đau,

Sờ mò nhấc đá, lối vào cửa hang.

Hai tay ngồi chận chắn ngang,

Rình lũ hai mắt thoát thân lối vào. 1750

Uy Lĩnh suy tính trước sau,

Ba con cừu kết với nhau một bầy,

Mỗi người buộc với sợi dây,

Dưới bụng cừu giữa lông dày nằm co.

Uy Lĩnh bám con cừu to,

Lông dày rậm rạp tròn vo bụng sườn.

Công việc lặng lẽ khẩn trương,

Hừng đông vừa đến, bóng đêm tan dần.

Chim chóc ríu rít non ngàn,

Khổng lồ lùa thả cừu đàn đi ăn. 1760

Hắn ngồi ngay giữa cửa hang,

Nắn lưng ve vuốt từng con dê cừu.

Nhưng nào hắn có biết đâu,

Kẻ thù đâm mắt nằm sau bụng cừu.

Con cừu Uy Lĩnh ra sau,

Khổng lồ nắn nót và ao ước rằng :

Ngày thường mi ở đầu đàn,

Cớ chi nay lại cuối hàng theo sau ?

Ngày thường nhanh gót đồi cao,

Bon bon thấy cỏ, ào ào suối trong. 1770

Đầu đàn nhanh bước về chuồng,

Nay ta mù mắt mi buồn luyến lưu.

Chẳng Có Ai trốn nơi đâu ?

Phải chi mi biết mách tao thế là,

Tên gian manh đó biết ta,

Xé tan trăm mảnh mới đà hả hê.

Hồi lâu ve vuốt tỉ tê,

Hắn đà thả hết cừu dê vào đồng.

Chờ cho xa cách cánh rừng

Uy Lĩnh đứng dậy tháo từng người ra. 1780

Nhanh chân đến bãi bình sa,

Lùa dê cừu béo, lối xa về thuyền.

Bạn bè mừng rỡ ôm hôn,

Kẻ còn người mất, lệ buồn đầy vơi.

Nhổ neo chèo lái ra khơi,

Đưa thuyền nhanh chóng tới nơi an toàn.

Thuyền vừa rời khỏi bãi cồn,

Uy Lĩnh quay mặt sau thuyền thét vang :

Độc Ly Phong tên dã man,

Tên man rợ vểnh tai lên nghe lời, 1790

Mi phạm tội ác tày trời,

Ăn thịt khách đến thăm ngươi chân tình,

Bọn ta chẳng phải tầm thường,

Ngốc ngu hèn hạ cúi luồn trước ngươi.

Mi bị trừng phạt đáng đời,

Chính ý Thần Dớt, đỉnh trời Thiên Sơn.


Tiếng vang sang sảng vọng lên,

Độc Ly Phong đứng đầu ghềnh núi nghe,

Tức điên giận dữ gầm ghè :

Chúng đã trốn thoát ra ghe lối nào ? 1800

Chẳng Có Ai đâm mù tao,

Sống còn ta quyết ra sao với mày.

Bẻ núi tảng như bẻ cây,

Ném nhanh về phía thuyền say sóng vờn.

Khối đá vượt qua con thuyền,

Dội cơn sóng đẩy lại mang vào bờ,

Thúc chèo sào đẩy sóng xô,

Con thuyền lại vượt nhấp nhô sóng dồi.

Xa bờ quảng trước gấp đôi,

Uy Lĩnh sau lái vọng lời trêu gan : 1810

Tên Độc Ly Phong dã man,

Nếu ai thăm hỏi, mi nên nói rằng,

Kẻ gây bất hạnh nhãn tiền,

Đâm mù con mắt mi nên trả lời :

Ấy là Uy Lĩnh ta thôi,

Anh hùng triệt hạ thành Troa hùng cường.

Con trai Lã Đạt Lão Vương,

Vua đảo An Thạch quê hương anh hùng.

Cho ta danh tiếng lẫy lừng,

Uy Lĩnh mưu trí không sờn gian nguy. 1820

Oán thù mi đã trả vây,

Từ nay đến chết thân mày tối tăm.

Dù cho Thần Biển Hải Long,

Biển xanh quyền thế cũng không cứu mày.

Bạn ta chết chằng tội gì.

Tiếc rằng chẳng giết được mi trả thù.

Độc Ly Phong tức điên đầu,

Máu sôi nguyền rủa khẩn cầu lâm râm :

Hỡi Hải Long đấng phụ thân,

Xin cha trừng phạt chuyển dâng sóng thần. 1830

Trừng trị Uy Lĩnh hại con,

Cho hắn chìm nổi tai ương đọa đầy.

Cầu rồi bủa tảng đá ngay,

Ném xa về phía tiếng bay vọng về,

Đá to rớt sau phía bờ,

Đẩy con thuyền đến đảo chờ bỏ neo,

Anh em hớn hở mừng reo,

Thoát cơn nguy biến mang theo dê cừu,

Kẻ còn, người mất thương đau,

Tàn đêm tế lễ khẩn cầu thần linh. 1840

Tế thần rồi lại chia phần,

Bập bùng ánh lửa âm thầm sóng vang.

(Còn tiếp kỳ tới)

Thi ca khúc VI  (Câu 1843-2320)

Đến đảo Thần gió Eole

Đến xứ người khổng lồ Lestrygons

Cuộc kỳ ngộ với tiên nữ Circé.



CHÚ THÍCH:


1492. Cyclopes dân Độc Nhãn, Mắt Tròn.

1410. Ismaros  ở bờ biển Thrace, dân gọi là Ciconnes, phía ̣ông Bắc Thasos.

1451. Lotophages ở bờ biển Libye gần Syrte, không xa đảo Méninx.

1492. Cyclope có nghĩa là mắt tròn. Có thể hiểu chương này Homère nhân cách hoá các miệng núi lửa hình tròn phun đá và thạch phún. Theo truyền thuyết có những quái vật sống trong vùng núi lửa vịnh Naples từ Bqies đến Véseve. Nhiều đảo trong vịnh mang tên là đảo dê và có nhiều dê rừng. Có đảo còn giữ tên Capri, Nisida nghĩa là đảo dê.





Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.