Hôm nay,  

LỜI GIỚI THIỆU “Di Cảo Thơ 1987-2009” của Nguyễn Lương Nhựt

21/07/201918:48:00(Xem: 3006)

LỜI GIỚI THIỆU

“Di Cảo Thơ 1987-2009” của Nguyễn Lương Nhựt

 

 

Nguyễn Lương Vỵ

  

blank 

Nguyễn Lương Nhựt (NLN), sinh ngày 01.07.1954. Nguyên quán: Xã Tam An, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

. Là con trai thứ hai trong một gia đình gồm 5 anh em (4 nam, 1 nữ).

. Nguyên cựu học sinh trường Trần Cao Vân (Tam Kỳ).

. Tốt nghiệp sĩ quan, trường bộ binh Thủ Đức (khóa 7/73), cấp bậc chuẩn úy       QL/VNCH, đóng quân tại sư đoàn 7 bộ binh cho đến ngày 30.04.1975.

. Giáo viên cấp 1 (từ 1976).

. Bệnh nhân tâm thần phân liệt từ tháng 8.1978 cho đến ngày từ trần 30.12.2013, hưởng thọ 60 tuổi.

NLN đã lập gia đình với cô giáo cấp 1 Nguyễn Thị Vui, sinh hạ được 2 người con (1 trai, Nguyễn Lương Nhựt Quang - 1 gái, Nguyễn Nguyệt Vương) nay đã trưởng thành.

*

Thuở thiếu thời, NLN là một đứa trẻ nhút nhát, chậm chạp, ít nói. Đến khi lên bậc trung học (cấp 2, cấp 3 ngày nay) NLN dần dần thay đổi tính tình, mạnh dạn hơn, nhất là khi học hết bậc trung học đệ nhất cấp (cấp 2 ngày nay) mới lên lớp đệ Tam (đầu cấp 3, lớp 10 ngày nay) NLN đã bộc lộ năng khiếu văn thơ. Tuy có tư chất thông minh, trí nhớ tốt, nhưng NLN lười học, thích suy nghĩ những chuyện khác thường, khác người, nhất là những chuyện tâm linh huyền bí siêu nhiên. NLN đã theo học thần quyền, mật tông Phật giáo từ rất sớm (16, 17 tuổi). Phải chăng đây là dấu hiệu đầu tiên của bệnh tâm thần phân liệt còn đang tiềm ẩn?!

 

Sau 30.04.1975, do phải đối mặt với nhiều nghịch cảnh, xáo trộn xã hội, cộng với bản tính ít nói, khép kín nội tâm, cuộc sống rất cơ cực, NLN đã rơi vào trạng thái trầm cảm, hoang tưởng, dẫn đến những cơn kích động tâm thần phân liệt, bộc phát khá nặng từ tháng 6.1978.

 

NLN đã được gia đình đưa đi điều trị tại các bệnh viện Nguyễn Trãi (Sài Gòn, 06.1980), bệnh viện tậm thần Biên Hòa (Đồng Nai, 09.1981), bệnh viện tâm thần Hòa Khánh (Đà Nẵng, 10.1983). Tổng thời gian điều trị nội trú tại các bệnh viện trên là hơn 6 năm, chưa kể thời gian điều trị ngắn hạn nhiều lần ở bệnh viện tâm thần Tam Kỳ (xin đọc thêm bài viết của bác sĩ Lê Đình Đại ở cuối sách). Tổng thời gian thọ bệnh là gần 35 năm cho đến ngày từ trần.

*

Sách “Di Cảo Thơ” của NLN gồm 3 tập thơ:

1. 100 Bài Thơ Điên (1987 – 2007).

2.  Cỏn Con (1988 – 2008) gồm 68 bài thơ.

3.  Góp Nhỏ, gồm 60 bài thơ (không thấy ghi thời gian sáng tác).

 

Và 9 bài thơ lẻ, được chọn lọc trong khoảng trên 20 bài thơ không nằm trong tập thơ nào.

 

Tổng cộng có 237 bài thơ trong Di Cảo.

 

Đây là số lượng thơ khá nhiều và hiếm đối với một bệnh nhân tâm thần phân liệt làm thơ ở Việt Nam (trường hợp nhà thơ Bùi Giáng và nhà văn Nguiễn Ngu Í thì khác: Hai vị nầy vào bệnh viện tâm thần rất ít, chỉ ở ngoài làm việc, sáng tác, rong chơi. Đến khi nào bệnh tái phát thì mới vào bệnh viện tĩnh dưỡng một vài tháng rồi về nhà).

 

Về hình thức, thơ NLN phần lớn  được viết theo thể thơ 4 câu (5 chữ, 7 chữ, lục bát) theo kiểu thi pháp truyền thống.

 

Ngôn ngữ thơ của NLN giản dị, bình dân. Sử dụng từ ngữ khá điêu luyện.

 

Nội dung thơ của NLN đa dạng phong phú. Độc đáo nhất là tập thơ “100 Bài Thơ Điên”: NLN mô tả đủ kiểu “điên” giúp cho người đọc có thể hình dung được thân phận bi đát, đáng thương của những bệnh nhân tâm thần. Bệnh viện tâm thần cũng là chốn “địa ngục trần gian”, nơi những người điên, tức những bệnh nhân tâm thần đã và đang trú ngụ. Đủ kiểu “điên” trong chừng mực nào đó, còn mang tính ẩn dụ, làm cho người đọc vừa chua xót ngậm ngùi, vừa giật mình tự hỏi: Phải chăng con người trong cõi nhân sinh nầy đều điên hết, không chừa một ai (?) như nhận định của Blaise Pascal (1623 – 1662) triết gia người Pháp:“Người ta vốn điên, điên một cách thiết yếu đến nỗi không điên cũng là điên theo một lối khác”(Les hommes sont si nécessairement fous, que ce serait être fou par un autre tour de folie, de n’être pas fou.) (Trích từ Lời Tựa của Bùi Giáng trong tác phẩm Mùi Hương Xuân Sắc của Gérard de Nerval - Bùi Giáng dịch).
 

Điên theo nghĩa bệnh lý y học và điên theo nghĩa triết học đều cho chúng ta một suy nghĩ bi đát, một định nghiệp tất nhiên của kiếp người?! Hỏi tức là trả lời rồi vậy!!!

2 tập thơ “Cỏn Con”, “Góp Nhỏ” thể hiện cảm xúc, suy tưởng, hồi tưởng, tự sự về bản thân, tưởng nhớ người thân và những chuyện thế thái nhân tình. Một số bài thơ thấm đẫm hương vị thiền của Phật pháp khá sâu sắc. Trong 9 bài thơ rời, đáng chú ý nhất là bài thơ “Nhất Diễn Phú”, thể hiện tài năng của NLN trong việc sử dụng từ ngữ khá linh hoạt, bản lĩnh, nhất là đối với thể “Phú”, một thể loại thi pháp cổ điển rất khó viết.

Một bệnh nhân tâm thần phân liệt đã bị đày đọa cả thể xác và tinh thần, phải hứng chịu nhiều nghịch cảnh trong đời sống, tưởng rằng NLN đã sớm gục ngã, nhưng với nghị lực phi thường của bản thân cùng với tình thương sâu đậm của gia đình, NLN chẳng những đã kiên cường “trụ thế” thêm gần 35 năm, mà còn là một nhà thơ “điên” đáng nể trọng. NLN cần cù và liên tục làm thơ, luôn xem thơ là người bạn tri kỷ, là bổn mệnh, là nguồn động viên an ủi lớn nhất đối với mình.

Vì vậy, chưa cần bàn đến giá trị văn chương trong thơ NLN như thế nào, nhưng giá trị nhân văn trong thơ NLN là điều hiển nhiên không thể phủ nhận. Chính vì tình yêu thơ một cách miên mật, tận hiến lạ thường của nhà thơ “điên” NLN, khiến cho thơ đã có cảm ứng, cảm động phản hồi, cứu rỗi nhà thơ “điên” NLN vượt qua được những khốn khó, bi kịch bản thân một cách không thể nghĩ bàn.

  

Thật đáng quý trọng xiết bao!!!

 

*

 

Chú Hai Nhựt thương nhớ,

 

Anh Cả Vỵ của chú đây,

 

Tập sách Di Cảo Thơ của chú, lẽ ra phải được hoàn tất vào cuối năm 2017 để kỷ niệm lần giỗ thứ 5 của chú như tâm nguyện của anh.

 

Nhưng rất tiếc, công việc đang dở dang nửa chừng thì cuối năm 2017, anh bị đột quỵ, phải nhập viện ngay để mổ tim, bác sĩ đã gắn 4 cái “by pass” trong tim anh. Rất may mắn, trái tim anh đã “vui trở lại”, anh đã thoát chết một cách diệu kỳ! Trải qua 2 lần đại phẩu thuật (1 lần 6 giờ, 1 lần 8 giờ) và 2 lần bị nhiễm trùng, tổng cộng thời gian hơn một năm điều trị, nay sức khỏe của anh mới dần dần hồi phục (tuy vẫn còn yếu, khi đi phải chống gậy), nhưng anh đã tập làm việc trở lại.

 

Công việc đầu tiên của anh là: Tập trung hoàn thành sách Di Cảo Thơ của chú. Anh rất hy vọng và cầu mong chú đang ở đâu đó sẽ rất hoan hỉ nở một nụ cười hài lòng và mãn nguyện. Anh vừa đánh máy, vừa đọc lại thơ của chú, tưởng như chú đang còn ở quanh đây, bên cạnh anh. Rất ấm lòng và rất cảm động về tình cốt nhục thiêng liêng của anh em mình.

 

Ký ức về thời thơ ấu của anh em mình vẫn còn hiện rõ trong tâm trí anh như những thước phim sinh động quay chậm:  

 

Đã gần 60 năm rồi, ở quê nhà, lúc đó chú khoảng 6, 7 tuổi, anh khoảng 8, 9 tuổi. Chiều nào cũng vậy, anh hay cõng chú qua vườn nhà ông hai Ngọc chơi (nhà ông ấy chỉ cách nhà mình một cái lũy tre, nhưng anh phải cõng chú vòng ra đường cái). Chú còn yếu ớt chậm chạp, hiền khô, thích ngồi một mình vọc đất chơi, còn anh thì mê đá bóng với lũ bạn trong xóm (quả bóng là bẹ chuối khô được quấn tròn lại, đá rất ê bàn chân nhưng vẫn ham đá!) Cho đến khi chiều tắt nắng, anh lại cõng chú trở về nhà, ra giếng tắm rửa rồi vào ăn cơm tối…

 

Cứ thế, cứ thế, thước phim quá khứ quay đều, quay chậm rất nhiều kỷ niệm không kể xiết.

 

Anh em mình mồ côi cha rất sớm (lúc đó anh mới hơn 13 tuổi). Anh phải xa nhà, tự lập thân rất sớm nơi đất khách quê người để tiếp tục việc học (Đà Nẵng, Qui Nhơn, Sài Gòn). Kỷ niệm đáng nhớ nhất là đầu năm 1973, anh em mình gặp nhau ở Sài Gòn: Lúc đó, anh là sinh viên đại học năm thứ 3, chú là sinh viên sĩ quan khóa 7/73 trường bộ binh Thủ Đức. Tuần nào chú có phép là về thăm anh, cà phê cà pháo tâm tình, rồi về căn gác trọ của anh chơi cờ tướng, hay thức khuya chuyện vãn, nhắc nhớ về mẹ, về các em ở quê nhà. Chú ra trường, đóng quân ở sư đoàn 7 bộ binh dưới miền Tây, anh em thỉnh thoảng vài ba tháng mới gặp nhau.

 

Sau 30.04.1975, xã hội còn nhiễu nhương, vật đổi sao dời, anh ở lại Sài Gòn, chú trở về quê nhà.

 

Tháng 8.1978, lúc anh lập gia đình ở Sài Gòn, thì ở quê nhà, chú ngã bệnh mà anh nào hay biết!

 

Tháng 6.1980, má và chú ba Đức đưa chú vào Sài Gòn. Anh đưa chú vào điều trị tại bệnh viện Nguyễn Trãi (6 tháng). Sau đó vào bệnh viện Biên Hòa (hơn 2 năm).

 

Giữa năm 1983, chú về quê và ra Đà Nẵng điều trị tiếp tại bệnh viện Hòa Khánh (3 năm 6 tháng) chưa kể khi chú trở lại quê nhà, đi cấp cứu và điều trị ngắn hạn tại bệnh viện Tam Kỳ khá nhiều lần.

 

Tháng 6.1993, anh từ Sài Gòn về thăm quê nhà, được chú cho đọc một số bài thơ trong tập thơ “100 Bài Thơ Điên” đang viết dở dang. Anh rất bất ngờ và cảm động, viết tặng ngay chú bài “Thơ Tốc Hành”. Chú cảm khái, gật gù, pha trà rồi đốt thuốc nhìn anh mỉm cười rất vui, rất đã:

 

THƠ TỐC HÀNH

Tặng em Nguyễn Lương Nhựt

 

Em phóng thơ tốc hành bằng trái tim ngoại thế

Của cơn-điên-hài-nhi-quỷ-dị-thánh-thần

Cơn phân liệt nghe đất trời sấm chẻ

Nghe các bậc tiên hiền thở nhẹ dưới bàn chân

 

Anh em mình có một thời mất máu

Một thời cùng đinh sát đáy cuộc đời

Thân lơ láo mà hồn thì ngún lửa

Giấc ly hương mơ mồ mả ông bà

 

Anh em mình có một thời rát cổ

Gào thiên thu tru vạn kiếp sao đành

Những người mẹ những người cha thống khổ

Những bờ tre những bụi cỏ điêu linh

 

Em điên ư?! Sao em còn giọt lệ

Em điên ư?! Hay tiếng thét đất trời

Hay nghiệp chướng trần gian hay có lẽ

Phía sau lưng niềm bí mật kinh người!

 

Thơ tốc hành xuyên ngang qua tim ta

Trái tim đỏ của một người trần tục

Ta tỉnh ư?! Sao ta ngồi đấm ngực

Ta tỉnh ư?! Sao ta lại khóc òa

 

Thơ tốc hành không dành riêng cho em

Bởi thời đại người-ma đầy mặt đất

Bởi sống chết không là gì sất

Cõi bờ kia trăng lửng bóng qua thềm…

 

Tháng 7.2012, anh từ Mỹ về thăm quê nhà, gặp chú lần cuối cùng. Lúc đó, chú đã trở bệnh rất nặng sau cú đột quỵ té sấp ngoài đường. Anh em gặp nhau, chỉ còn biết nhìn nhau mà nghẹn lời!!!

 

Chú mất ngày 30.12.2013. Anh không kịp về dự đám tang chú!

 

Tháng 1.2014, anh từ Mỹ trở về thắp nhang và ngồi bên mộ chú.

 

Sinh tử phù vân, cuộc đời giống như một giấc mộng!!!

 

HÁT KHẼ BÊN MỒ

Tưởng nhớ em Nguyễn Lương Nhựt

 

I.

 

Về đứng bên mồ em 
Hình như em đi vắng 
Hình như bông huệ trắng 
Đang gọi bóng mây xa 
Hình như trưa vút qua 
Hình như thây ma khóc 
Dưới mồ chưa khô tóc 
Trên đời chưa phai màu 
Á đù em đi đâu 
Á đù vang tiếng hú 
Cơn điên vô sở trú 
Cơn điên vô sở cầu 
Câu thơ bầm huyết đau 
Câu thơ trào huyết nhớ 
Mồ còn xanh hơi thở 
Trưa còn xanh chiêm bao 
Mây trắng bay trên cao 
Hay em là mây trắng?! 
Cơn điên gào thinh vắng 
Cơn điên gào đời điên . . .

 

 

II.

 

 

Về đứng bên mồ em 
Nắng rền trên lá cỏ 
Nghĩa địa rền ngất gió 
Vút cánh én kêu thương 
Lập xuân trên đồi nương 
Con bò già chớp mắt 
Vườn xưa chưa kịp nhặt 
Tiếng khóc thuở ban đầu 
Á đù âm trời sâu 
Á đù đời lạnh cóng 
Tuổi thơ cha khuất bóng 
Tuổi già mẹ khóc con 
Ta gặm câu thơ mòn 
Chữ vô hồn vô nghĩa 
Khói nhang rưng mộ địa 
Em bay đi xa rồi 
Trời đất vốn mồ côi 
Vốn mịt mù huyễn mộng 
Tiếng ma tru bi thống 
Hay tiếng em gọi ta?!

 

 

III.

 

 

Về đứng bên mồ ma 
Đáp lời sau tiếng gọi: 
Điêu linh trọn một gói 
Em mang theo cho vui 
Kiếp người trọn một nùi 
Em mang theo đỡ nhớ 
Trời cao kia ấm ớ 
Đất thấp kia ỡm ờ 
Á đù đời bơ vơ 
Á đù người với ngợm 
Khóc em lệ chẳng rớm 
Mà sao đắng hết lời 
Mà sao khô hết môi 
Cúi đầu nghe cỏ hát 
Hăm mốt ngày thịt nát 
Ba lăm năm điên tàn 
Điên vì thời dã man 
Điên vì bầy chủ nghĩa 
Xoa mồ em hú vía 
Chúc em bay thật xa . . .

 

Quán Rường, 21.01.2014 
(Cúng thất 21 ngày, em Nguyễn Lương Nhựt)

 

Chú Hai Nhựt thương nhớ,

 

Anh đang ngồi đọc thơ chú đây. Anh đọc chẫm rãi, từ từ để soi tâm hồn mình trong thơ của chú. Những bài thơ trong vắt trong veo, chân thành, dung dị mà cảm động biết dường nào. Thơ của một người điên mà chẳng điên chút nào, xuyên thấu tâm hồn anh. Thơ của một người điên mà là thơ chánh hiệu con nai vàng, thơ thứ thiệt một ngàn phần trăm, không giả hình giả tướng, không ồn ào khoe mẻ ta đây trí thức trí ngủ, văn nghệ văn gừng, kịch cỡm lăng nhăng ba trợn đang đầy rẫy trong thời đại ma nghiệt nấy. Anh không bình thơ, ngợi khen thơ chú mà nâng niu, trân trọng từng bài thơ, đánh máy kỷ càng, cố gắng tối đa không để sai sót một câu, một chữ, một dấu chính tả để “trình làng” cho bằng hữu, thân quyến xa gần của chú cùng đọc, cùng thưởng thức, cùng tưởng nhớ chú.

 

Anh tin, chú sẽ rất hài lòng và nở nụ cười hoan hỉ trong cõi hư không.

 

Vậy đi nhé! Chú Hai Nhựt của anh!!!

 

Calif. Westminster, Jun 20.2019

 

GHI CHÚ: Tập thơ “Di Cảo Thơ 1987-2009” của Nguyễn Lương Nhựt vừa được nhà xuất bản Sống phát hành. Dày 206 trang. Đánh máy bản thảo: Nguyễn Lương Vỵ. Trình bày bìa & trang trong: Lê Giang Trần. Tìm mua, xin liên lạc: nhaxuatbansong@gmail.com hay luongvynguyen2@gmail.com

 

Đọc thêm:

Lê Giang Trần -- LỜI BẠT “Di Cảo Thơ 1987-2009” của Nguyễn Lương Nhựt

https://vietbao.com/a296737/loi-bat-di-cao-tho-1987-2009-cua-nguyen-luong-nhut

 

 



 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.