Hôm nay,  

Phê Bình Tìm Vết Chân Xưa Của Điệp Mỹ Linh

26/05/201913:03:00(Xem: 4345)

PHÊ BÌNH TÌM VẾT CHÂN XƯA

của Điệp Mỹ Linh

 

 PHỤNG HỒNG

 

blank

Tựa đề của tập truyện cho phép tôi nghĩ ngay rằng đây là chuyện tình của những người yêu nhau, mất nhau và tìm lại được nhau. Thế nhưng khi đọc xong tác phẩm tôi mới nhận thấy rằng trong Tìm Vết Chân Xưa chỉ có truyện Cuộc Tình Xót Xa và Mơ Chiều là viết về tình yêu đôi lứa, còn những truyện khác cũng viết về tình yêu, nhưng là tình yêu quê hương, tình yêu gia đình. Tất cả khối tình yêu này được tác giả lồng trong những sinh hoạt sống động của xã hội và trong nhiều cảnh sắc thân thương nơi quê nhà. Theo nhận xét của tôi, ngoài những đoạn tả cảnh rất tuyệt vời, tác giả đã đặt vào Tìm Vết Chân Xưa một tấm lòng rất nhân hậu. Vì tấm lòng của tác giả đã như thế cho nên nhân vật của tác giả thường là những người có tư tưởng cao, trái tim rộng mở; ngoại trừ Hoan, nhân vật nam trong chuyện Vết Đau Xưa. 

 

Từ lâu, tôi tự đặt một nguyên tắc cho riêng tôi: Khi đọc một tác phẩm thì không nên “nhập nhằn” giữa tác giả và nhân vật. Thế mà mỗi khi đọc văn của Điệp-Mỹ-Linh không hiểu tại sao tôi không thể tách rời được tác giả và nhân vật. Đặc biệt khi đọc Tìm Vết Chân Xưa thì ý niệm lẫn lộn giữa tác giả và nhân vật càng hiện rõ trong tôi. Vì thế, tôi nghĩ cô bé trong hai truyện Cuộc Tình Xót Xa và Qua Làng Sơn Tịnh chính là tác giả Điệp-Mỹ-Linh lúc Bà còn bé.

 

Không hiểu sự ức đoán của tôi đúng được bao nhiêu phần trăm nhưng tôi nghĩ tác giả đã chinh phục người đọc bằng sự phối hợp rất chặt chẽ và khéo léo giữa hiện thực, hư cấu và cảm tính khiến câu chuyện trở nên sống động và nhân vật rất gần gủi trong cuộc sống thường ngày. Như trong đoạn văn sau đây, trích từ Cuộc Tình Xa, Điệp-Mỹ-Linh viết:

 

... Đón nhận mẫu kẹo kéo từ tay người cậu xong, đứa bé gái lại vòi vĩnh: “Cậu cho em xuống ngồi chỗ bậc ấp coi Ba Má em đi xe đạp, nhen, cậu.” Cậu bé giả vờ nghiêm nét mặt, mắt lườm lườm để thị oai với cháu: “Mày cứ lộn xộn, nhõng nhẽo không hà. Chiều nào cũng bắt tao dẫn đi mua kẹo kéo, rồi lại đòi tới bậc cấp ngồi, để tối về mày bị sổ mũi cho tao bị la, hả?” Thấy đứa bé rơm rớm nước mắt, môi trề ra như sắp khóc, cậu bé vừa mở cửa ngồi vào băng sau vừa cười: “Cho tao cắn một miếng kẹo kéo thì tao cho đi.” Đứa bé giấu mẫu kẹo sau lưng, lắc đầu. Cậu bé năn nỉ: “Cho cậu cắn một tý thôi, rồi cậu cho đi.” Đứa bé gái đưa mẫu kẹo ra phía trước, ngắm nghía rồi bặm môi, lắc đầu. Người cậu che mặt, giả vờ khóc. Đứa bé nhìn cậu bằng đôi mắt buồn hiu, rồi đưa mẫu kẹo cho cậu: “Nè, em cho cậu cắn miếng đó, mà cậu cắn chút xíu thôi, nhen...” (Trang 4)

 

Qua đoạn văn vừa trích dẫn, người đọc thường nói nôm na là Điệp-Mỹ-Linh viết như thật. Vì độc giả có cảm tưởng câu chuyện và đối thoại như thật cho nên nhiều người bạn của tôi đi đến kết luận là tính chất tự truyện trong tác phẩm của Điệp-Mỹ-Linh rất đậm đặc. Dù không hoàn toàn đồng ý với nhận xét của bạn hữu, tôi cũng không thể biện minh cho đoạn mở đầu của truyện Cuộc Tình Xót Xa:

 

“... Trong ánh nắng mong manh của một buổi chiều, Bảo-Trân và Phong đều cảm thấy buồn buồn nên không nói năng chi nữa, chỉ đi chầm chậm bên nhau, theo triền dốc, về hướng bờ Hồ-Xuân-Hương. Mặt hồ tĩnh lặng. Nhưng từ tâm trạng bất an của lòng mình, Bảo-Trân nghĩ rằng sự tĩnh lặng đó chỉ để che dấu những đột biến âm thầm...“ (Trang 3).

 

Nếu nhân vật chính không phải là tác giả thì làm thế nào tác giả có thể cảm nhận được tâm trạng của Bảo-Trân một cách rất thật, rất chính xác, rất thích hợp để so sánh với sự tĩnh lặng của mặt hồ? Theo tôi, đây là một đoạn tả cảnh ngụ tình rất tuyệt.

 

Không phải chỉ một đoạn này mới mang tính chất tự truyện mà rải rác trong những tác phẩm trước đây của Điệp-Mỹ-Linh tôi cũng đã bắt gặp vài truyện mang tích chất tự truyện. Tuy vậy, tôi vẫn không nghĩ những sáng tác của Điệp-Mỹ-Linh là tự truyện, vì: Điệp-Mỹ-Linh viết rất nhiều về Lính trong khi bà không có số quân. Điệp-Mỹ-Linh làm rung động tâm hồn người đọc về những mẫu chuyện Phục-Quốc trong khi bà không hề liên hệ đến bất cứ một tổ chức chính trị nào. Điệp-Mỹ-Linh viết về thân phận tù đày và H.O. trong khi bà định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1975.

Không phải là tự truyện mà ngòi bút của Điệp-Mỹ-Linh viết như thật thì đó là sự thành công không phải bất cứ ngòi bút nào cũng đạt được. Và, đúng như nhà văn Earnest Hamingway đã nói: “All good books are alike in that they are truer than if they really happened and after you are finished reading one you will feel that all that happened to you, and afterwards it all belongs to you.”

 

Trên văn đàn, có những nhà văn thu hút nhiều độc giả bình dân. Có những nhà văn mà đa phần độc giả là giới trí thức, có trình độ văn hóa cao. Cũng có những nhà văn mà độc giả gồm đủ mọi thành phần xã hội, mọi lằn ranh kiến thức. Điệp-Mỹ-Linh thuộc vào những nhà văn này. Điệp-Mỹ-Linh không đi tìm những gì cao cả, xa rời thực tế. Điệp-Mỹ-Linh chỉ “vẽ” ra những bức tranh có thật của xã hội bằng ngòi bút đầy tự tin và bằng tâm hồn trong sáng, đầy thương yêu.

 

Tư tưởng của Điệp-Mỹ-Linh trong những tác phẩm đã xuất bản chúng ta có thể chia ra bốn phần, điển hình cho bốn giai đoạn khác nhau trên bước đường lưu lạc:

Giai đoạn I.- Vọng cố hương. Tình cảm dành cho đoàn quân bại trận. Gương oanh liệt của những người trai Phục-Quốc. Hoàn cảnh khốn khổ của những ngày mới hội nhập. Cuộc sống bi thương dưới sự cai trị của Việt-Cộng. (trong tập truyện Một Đoạn Đường)

 

Giai đoạn II.- Xã hội Việt-Nam “thu hẹp” đã thành hình. Trong xã hội thu hẹp này Điệp-Mỹ-Linh, không những đã bắt gặp những thảm cảnh gia đình do tuổi trẻ bồng bột, dễ bị đầu độc (trong tập truyện Bước Chân Non) mà Bà còn thấy được nhiều bông hoa rực rỡ từ thế hệ di dân thứ hai, (trong tập truyện Đưa Tiễn) và những khó khăn cũng như những va chạm rất dữ dội giữa những người ra đi năm 1975 và những người ra đi theo diện đoàn tụ O.D.P. (Truyện dài Cuồng Lưu)

 

Giai đoạn III.- Là giai đoạn về những người sang Mỹ theo diện H.O. và những sum vầy cay đắng, đầy nước mắt, ở quê nhà. (trong tập truyện Tưởng Như Trở Về).

 

Giai đoạn IV.- Tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa thuộc vào giai đoạn này; giai đoạn mà những người tị nạn trở về chốn xưa. Điệp-Mỹ-Linh “đưa” người đọc trở về quê cũ không phải chỉ để “tìm lại chính mình” (chữ của Điệp-Mỹ-Linh) mà, theo dòng suy tư của tác giả, chúng ta được dẫn dắt vào mỗi câu chuyện để buồn vui theo từng biến chuyển của hoàn cảnh xã hội và của dòng lịch sử Việt-Nam cận đại. Ngoài ra ý tưởng phản kháng của Điệp-Mỹ-Linh về lề lối giáo dục xưa, về những quan niệm xưa, về cung cách “trọng nam khinh nữ” của những bậc cha mẹ cũng được Bà bộc lộ rất rõ nét trong giai đoạn này.

 

Trong những tác phẩm trước, hai hình tượng được tác giả tô đậm nét nhất là người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa và phụ nữ. Hình tượng thứ ba cũng được tác giả đề cập đến với rất nhiều cảm mến, đó là người y-sĩ Quân Y. Riêng trong Tìm Vết Chân Xưa, bóng dáng người y-sĩ Quân Y được tác giả đưa vào truyện bằng những dòng văn hết sức xúc tích, lãng mạn, gợi cảm và thiết tha. Cũng bằng những dòng văn đó, ngòi bút của Điệp-Mỹ-Linh đã tỉ mỉ gợi lại kỷ niệm xưa.

 

Trong khi Ugo Betti cho rằng “Memories are like stones, time and distance crack them like acid” thì, dưới ngòi bút của Điệp-Mỹ-Linh, kỷ niệm không những vẫn nguyên vẹn, không bị thời gian và acid xoi mòn, mà lại còn trở nên đậm đà, sống động:

 

“... Sự thiếu vắng hai hàng cây muồn khiến Bảo-Trân tiếc ngẩn tiếc ngơ như tiếc nỗi rộn ràng của đứa bé gái trên chuyến xe lửa trở về quê Nội sau bao nhiêu năm dài theo gia đình tản cư ra “vùng giải phóng”! Ngày đó, xe lửa vừa qua khỏi vườn dừa ở Chợ-Mới, ông Dư đã chỉ cho Bảo-Trân khoảng không gian êm ả bên trái con tàu: ‘Tới Nhatrang rồi đó, con! Đây là Mã-Vòng. Qua khỏi Mã-Vòng là nhà ga.’ Bà Dư tiếp lời chồng: ‘Hồi con mới biết đi, Ba má đem con từ Dalat về thăm Nội. Khi xe lửa vừa vào nhà ga, máy bay Nhật ào đến thả bom. Nhà ga sập, không biết bao nhiêu là người chết!’ Giọng ông bà Dư đượm chút bùi ngùi, nhưng vì còn nhỏ, Bảo-Trân không nhận biết được nên lòng bé chỉ thấy xôn xao vui thích khi nhìn những đóa hoa vàng nở rộ trên hai hàng cây muồn khẳng khiu. Phải hơn bốn mươi năm sau, nhân chuyến từ bên kia địa cầu trở về quê Nội, Bảo-Trân mới hiểu được tại sao ngày đó, trên chuyến xe lửa từ Ninh-Hòa vô Nhatrang và suốt những ngày sống trong trại tạm cư ở Xóm-Mới, lúc nào gương mặt ông bà Dư cũng buồn buồn và giọng nói thường đượm nhiều xót xa...” ( Tìm Vết Chân Xưa, trang 58)

 

Chỉ qua một đoạn văn ngắn này tác giả đã đưa người đọc lùi lại dòng Việt sử để người đọc nhận ra được sự điêu linh/khốn khó của quê hương cũng như thân phận và tâm trạng của những người cùng thế hệ với Bà.

 

Kỷ niệm của Điệp-Mỹ-Linh (tôi mạo muội nghĩ như thế, vì tôi cứ bị nhập nhằn giữa nhân vật và tác giả) sau khi hồi cư trở về “vùng bị chiếm” thì bùi ngùi xót xa đến như thế; còn kỷ niệm của Điệp-Mỹ-Linh khi sống trong “vùng giải phóng” thì như thế nào? Xin mời độc giả đọc tiếp đoạn sau đây:

 

“... Trên sân khấu, ánh sáng hơi nhạt, chỉ đủ cho khán giả thấy đôi lưỡng quyền nhô cao, hai vùng má trũng sâu cùng đôi mắt lạc thần của các diễn viên đang run rẩy lê bước. Văng vẳng sau hậu trường, ban đàn giây hòa tấu bản Đói Lạnh. Vở kịch kéo dài bằng những lời đối thoại gay gắt, lên án sự tàn bạo, dã man của chế độ Phát-Xít.

Đến màn cuối, giữa khi tinh thần khán giả hoàn toàn bị khung cảnh và âm thanh chi phối, Bảo-Trân, đã được hóa trang thành một bé gái đói hom hem và rách tả tơi, gượng đứng lên giữa đoàn người đi xin ăn, cất giọng run run như sắp khóc, tay ôm bụng, gương mặt nhăn nhó như cơn đói đang hành hạ rồi gào lên nho nhỏ: ‘... Vì đâu, từ ba bốn hôm nay không ăn? Nhà không có, áo quần nay không còn ... Trời ơi! Đói quá đi thôi! Rét quá đi thôi!....’ Tám tiếng sau cùng được một tập hợp âm thanh nhiều bè hát theo từ sau hậu trường, nghe rền rền như vang lên từ cõi chết!

Một tù binh Pháp xúc động quá, sẵn đang cầm mẫu bánh mì nguội trong tay, anh ta thảy lên sâu khấu. Bảo-Trân đột ngột ngưng hát, lượm ngay miếng bánh mì, ăn ngấu nghiến như một đứa bé thật sự sắp chết đói!...” (Qua Làng Sơn-Tịnh, trang 80).

 

Qua đoạn này tôi nhận thấy bút pháp của Điệp-Mỹ-Linh tạo được sự bất ngờ rất thú vị, phảng phất chút kịch tính, nhưng không có dấu vết của sự cường điệu. Điệp-Mỹ-Linh không cần lên án ai cả, nhưng hành động bất ngờ của diễn viên tí hon trong đoạn này đã nói lên tất cả thảm cảnh của một xã hội lầm than trong “vùng giải phóng”!

 

Khi diễn tả về sự ấm no hạnh phúc dưới sự cai trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Điệp-Mỹ-Linh viết:

 

“... Xe chạy dọc theo bờ đê mà, ở những đoạn bờ đê thấp hoặc bị vỡ, Bảo-Trân nhìn vào, không thấy nước trong lòng sông, chỉ thấy cây bắp và vài loại rau cải. Bảo-Trân khoèo vai Ninh, hướng dẫn viên du lịch, hỏi nhỏ:

- Đây là sông gì, Ninh?

- Dạ, đây là sông Hồng.

Thốt nhiên Bảo-Trân cảm thấy xúc động một cách nhẹ nhàng. Thì ra dòng sông đã gieo cảm hứng cho không biết bao nhiêu nghệ sĩ di cư là dòng sông này! Bảo-Trân chỉ ra bờ đê:

- Tại sao người ta lại trồng hoa màu trong lòng sông, nhỡ nước lên thì sao?

- Dạ, ở đây đất hiếm và dân nghèo lắm. Họ trồng theo mùa. Họ phải tính làm sao khi vừa thu hoặch hoa màu xong thì đúng vào mùa nước lớn.

- Nếu vậy, sang năm, đến khi nước ròng, làm sao họ biết được khu vực nào thuộc về họ?

- Dạ, họ cắm sào, đánh dấu cả đấy.

Bảo-Trân im lặng, cảm thương cho cảnh nghèo của những người đã một thời được tuyên truyền để tin tưởng rằng sau khi giải phong được miền Nam, cuộc sống sẽ khá hơn, vì xã hội không còn giai cấp nữa!...” (Dưới Bóng Cổ Thụ, trang 110).

 

Chỉ vài đoạn trích dẫn ngắn, độc giả cũng có thể đồng ý với tôi rằng nhà văn chỉ trình bày sự việc; còn cảm nhận hoặc phê phán Điệp-Mỹ-Linh dành trọn quyền cho độc giả.

 

Chỉ bảy truyện ngắn, với những diễn tiến lớp lang, độc giả có thể nhìn xuyên suốt những biến chuyển xã hội trên quê hương Việt Nam qua bao thời kỳ đao binh. Tác giả viết về những giai đoạn đó bằng một tấm lòng rất nhạy cảm, rất bao dung, chan chứa tình người. Bối cảnh làm nền cho những giai đoạn đó lại là những đoạn tả cảnh hết sức linh động, khiến người đọc cảm thấy thương nhớ quê nhà và chỉ muốn trở về. Riêng truyện cuối, Vết Đau Xưa, tác giả đã bộc lộ rõ rệt tư tưởng phản kháng của Bà về những tập tục khắc nghiệt mà xã hội Việt Nam đã phủ chụp lên thân phận người phụ nữ Việt Nam. Và đoạn kết của tập truyện cũng rất khác lạ, vì tác giả lấy đoạn kết của truyện đầu tiên, Cuộc Tình Xót Xa, làm đoạn kết cho toàn tập truyện. Người đọc yêu thích văn của Điệp-Mỹ-Linh vì sự đãi lọc chi tiết thâm thúy, câu văn trong sáng, ý tưởng sâu sắc, đậm đà. Khi viết về một mối tình cao thượng tác giả biết dừng lại đúng lúc để làm cho người đọc cảm thấy còn thèm đọc tiếp.

 

Đọc truyện của Điệp-Mỹ-Linh, người đọc cứ miên man, chìm đắm với suy tư của nhân vật rồi bị tác gỉa dẫn dắt vào vùng kỷ niệm lúc nào không hay.

 

Sở dĩ độc giả khó nhận biết những khoảng chuyển tiếp giữa thực tại và quá khứ, giữa hư cấu và hiện thực là vì tác giả đã dùng thuật ngữ để chuyển mạch một cách rất tài tình. Đặc điểm này của Điệp- Mỹ-Linh được Điệp-Mỹ-Linh khai thác trọn vẹn khi thực hiện tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa. Thật vậy, sau khi đọc xong bảy truyện ngắn, gấp sách lại tôi mới nhận ra đây là một chuyện dài biến thể.

 

Tôi nhận xét như thế không phải vì nhân vật nữ chính, tên Bảo-Trân, xuất hiện trong tất cả bảy truyện mà là vì biến chuyển của những mẫu chuyện được dàn trải gần như theo thứ tự thời gian, không gian và tình cảm của nhân vật.

 

Kết luận của những tác phẩm của Điệp-Mỹ-Linh, đặc biệt nhất là trong Tìm Vết Chân Xưa, thường được bỏ lửng, để tùy độc giả tưởng tượng thêm hoặc là để độc giả cảm thấy tiên tiếc, như chưa muốn câu chuyện dừng lại ở đó.

 

Tìm Vết Chân Xưa là một cuốn sách in rất đẹp, rất trang nhã và đây là một truyện dài biến thể, một thể loại mới mà Điệp-Mỹ-Linh đang dò dẫm (chữ của Điệp-Mỹ- Linh, đăng trên Ngày Nay Houston) chứ không phải truyện dài được chia ra nhiều chương và nhiều hồi.

 

Ngoài ra, Điệp-Mỹ-Linh còn lồng vào câu chuyện những dòng thơ hoặc những đoạn nhạc rất thích hợp và rất tự nhiên; tự nhiên như khi ta ăn một bát phở, muốn cho ngon hơn, ta cho vào tý tiêu, tí chanh vậy. Kỹ thuật trích dẫn những đoạn nhạc còn cho thấy Điệp-Mỹ-Linh là một người có trình độ nhạc lý cao.

 

Để kết luận bài viết này, tôi xin cảm ơn nhà văn Điệp-Mỹ-Linh và tôi cũng xin được giới thiệu đến quý độc giả tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa với tất cả sự trang trọng và sự thành thật của một người cầm bút.

 

PHỤNG HỒNG

 



 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.