Hôm nay,  

Phê Bình Tìm Vết Chân Xưa Của Điệp Mỹ Linh

5/26/201913:03:00(View: 4347)

PHÊ BÌNH TÌM VẾT CHÂN XƯA

của Điệp Mỹ Linh

 

 PHỤNG HỒNG

 

blank

Tựa đề của tập truyện cho phép tôi nghĩ ngay rằng đây là chuyện tình của những người yêu nhau, mất nhau và tìm lại được nhau. Thế nhưng khi đọc xong tác phẩm tôi mới nhận thấy rằng trong Tìm Vết Chân Xưa chỉ có truyện Cuộc Tình Xót Xa và Mơ Chiều là viết về tình yêu đôi lứa, còn những truyện khác cũng viết về tình yêu, nhưng là tình yêu quê hương, tình yêu gia đình. Tất cả khối tình yêu này được tác giả lồng trong những sinh hoạt sống động của xã hội và trong nhiều cảnh sắc thân thương nơi quê nhà. Theo nhận xét của tôi, ngoài những đoạn tả cảnh rất tuyệt vời, tác giả đã đặt vào Tìm Vết Chân Xưa một tấm lòng rất nhân hậu. Vì tấm lòng của tác giả đã như thế cho nên nhân vật của tác giả thường là những người có tư tưởng cao, trái tim rộng mở; ngoại trừ Hoan, nhân vật nam trong chuyện Vết Đau Xưa. 

 

Từ lâu, tôi tự đặt một nguyên tắc cho riêng tôi: Khi đọc một tác phẩm thì không nên “nhập nhằn” giữa tác giả và nhân vật. Thế mà mỗi khi đọc văn của Điệp-Mỹ-Linh không hiểu tại sao tôi không thể tách rời được tác giả và nhân vật. Đặc biệt khi đọc Tìm Vết Chân Xưa thì ý niệm lẫn lộn giữa tác giả và nhân vật càng hiện rõ trong tôi. Vì thế, tôi nghĩ cô bé trong hai truyện Cuộc Tình Xót Xa và Qua Làng Sơn Tịnh chính là tác giả Điệp-Mỹ-Linh lúc Bà còn bé.

 

Không hiểu sự ức đoán của tôi đúng được bao nhiêu phần trăm nhưng tôi nghĩ tác giả đã chinh phục người đọc bằng sự phối hợp rất chặt chẽ và khéo léo giữa hiện thực, hư cấu và cảm tính khiến câu chuyện trở nên sống động và nhân vật rất gần gủi trong cuộc sống thường ngày. Như trong đoạn văn sau đây, trích từ Cuộc Tình Xa, Điệp-Mỹ-Linh viết:

 

... Đón nhận mẫu kẹo kéo từ tay người cậu xong, đứa bé gái lại vòi vĩnh: “Cậu cho em xuống ngồi chỗ bậc ấp coi Ba Má em đi xe đạp, nhen, cậu.” Cậu bé giả vờ nghiêm nét mặt, mắt lườm lườm để thị oai với cháu: “Mày cứ lộn xộn, nhõng nhẽo không hà. Chiều nào cũng bắt tao dẫn đi mua kẹo kéo, rồi lại đòi tới bậc cấp ngồi, để tối về mày bị sổ mũi cho tao bị la, hả?” Thấy đứa bé rơm rớm nước mắt, môi trề ra như sắp khóc, cậu bé vừa mở cửa ngồi vào băng sau vừa cười: “Cho tao cắn một miếng kẹo kéo thì tao cho đi.” Đứa bé giấu mẫu kẹo sau lưng, lắc đầu. Cậu bé năn nỉ: “Cho cậu cắn một tý thôi, rồi cậu cho đi.” Đứa bé gái đưa mẫu kẹo ra phía trước, ngắm nghía rồi bặm môi, lắc đầu. Người cậu che mặt, giả vờ khóc. Đứa bé nhìn cậu bằng đôi mắt buồn hiu, rồi đưa mẫu kẹo cho cậu: “Nè, em cho cậu cắn miếng đó, mà cậu cắn chút xíu thôi, nhen...” (Trang 4)

 

Qua đoạn văn vừa trích dẫn, người đọc thường nói nôm na là Điệp-Mỹ-Linh viết như thật. Vì độc giả có cảm tưởng câu chuyện và đối thoại như thật cho nên nhiều người bạn của tôi đi đến kết luận là tính chất tự truyện trong tác phẩm của Điệp-Mỹ-Linh rất đậm đặc. Dù không hoàn toàn đồng ý với nhận xét của bạn hữu, tôi cũng không thể biện minh cho đoạn mở đầu của truyện Cuộc Tình Xót Xa:

 

“... Trong ánh nắng mong manh của một buổi chiều, Bảo-Trân và Phong đều cảm thấy buồn buồn nên không nói năng chi nữa, chỉ đi chầm chậm bên nhau, theo triền dốc, về hướng bờ Hồ-Xuân-Hương. Mặt hồ tĩnh lặng. Nhưng từ tâm trạng bất an của lòng mình, Bảo-Trân nghĩ rằng sự tĩnh lặng đó chỉ để che dấu những đột biến âm thầm...“ (Trang 3).

 

Nếu nhân vật chính không phải là tác giả thì làm thế nào tác giả có thể cảm nhận được tâm trạng của Bảo-Trân một cách rất thật, rất chính xác, rất thích hợp để so sánh với sự tĩnh lặng của mặt hồ? Theo tôi, đây là một đoạn tả cảnh ngụ tình rất tuyệt.

 

Không phải chỉ một đoạn này mới mang tính chất tự truyện mà rải rác trong những tác phẩm trước đây của Điệp-Mỹ-Linh tôi cũng đã bắt gặp vài truyện mang tích chất tự truyện. Tuy vậy, tôi vẫn không nghĩ những sáng tác của Điệp-Mỹ-Linh là tự truyện, vì: Điệp-Mỹ-Linh viết rất nhiều về Lính trong khi bà không có số quân. Điệp-Mỹ-Linh làm rung động tâm hồn người đọc về những mẫu chuyện Phục-Quốc trong khi bà không hề liên hệ đến bất cứ một tổ chức chính trị nào. Điệp-Mỹ-Linh viết về thân phận tù đày và H.O. trong khi bà định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1975.

Không phải là tự truyện mà ngòi bút của Điệp-Mỹ-Linh viết như thật thì đó là sự thành công không phải bất cứ ngòi bút nào cũng đạt được. Và, đúng như nhà văn Earnest Hamingway đã nói: “All good books are alike in that they are truer than if they really happened and after you are finished reading one you will feel that all that happened to you, and afterwards it all belongs to you.”

 

Trên văn đàn, có những nhà văn thu hút nhiều độc giả bình dân. Có những nhà văn mà đa phần độc giả là giới trí thức, có trình độ văn hóa cao. Cũng có những nhà văn mà độc giả gồm đủ mọi thành phần xã hội, mọi lằn ranh kiến thức. Điệp-Mỹ-Linh thuộc vào những nhà văn này. Điệp-Mỹ-Linh không đi tìm những gì cao cả, xa rời thực tế. Điệp-Mỹ-Linh chỉ “vẽ” ra những bức tranh có thật của xã hội bằng ngòi bút đầy tự tin và bằng tâm hồn trong sáng, đầy thương yêu.

 

Tư tưởng của Điệp-Mỹ-Linh trong những tác phẩm đã xuất bản chúng ta có thể chia ra bốn phần, điển hình cho bốn giai đoạn khác nhau trên bước đường lưu lạc:

Giai đoạn I.- Vọng cố hương. Tình cảm dành cho đoàn quân bại trận. Gương oanh liệt của những người trai Phục-Quốc. Hoàn cảnh khốn khổ của những ngày mới hội nhập. Cuộc sống bi thương dưới sự cai trị của Việt-Cộng. (trong tập truyện Một Đoạn Đường)

 

Giai đoạn II.- Xã hội Việt-Nam “thu hẹp” đã thành hình. Trong xã hội thu hẹp này Điệp-Mỹ-Linh, không những đã bắt gặp những thảm cảnh gia đình do tuổi trẻ bồng bột, dễ bị đầu độc (trong tập truyện Bước Chân Non) mà Bà còn thấy được nhiều bông hoa rực rỡ từ thế hệ di dân thứ hai, (trong tập truyện Đưa Tiễn) và những khó khăn cũng như những va chạm rất dữ dội giữa những người ra đi năm 1975 và những người ra đi theo diện đoàn tụ O.D.P. (Truyện dài Cuồng Lưu)

 

Giai đoạn III.- Là giai đoạn về những người sang Mỹ theo diện H.O. và những sum vầy cay đắng, đầy nước mắt, ở quê nhà. (trong tập truyện Tưởng Như Trở Về).

 

Giai đoạn IV.- Tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa thuộc vào giai đoạn này; giai đoạn mà những người tị nạn trở về chốn xưa. Điệp-Mỹ-Linh “đưa” người đọc trở về quê cũ không phải chỉ để “tìm lại chính mình” (chữ của Điệp-Mỹ-Linh) mà, theo dòng suy tư của tác giả, chúng ta được dẫn dắt vào mỗi câu chuyện để buồn vui theo từng biến chuyển của hoàn cảnh xã hội và của dòng lịch sử Việt-Nam cận đại. Ngoài ra ý tưởng phản kháng của Điệp-Mỹ-Linh về lề lối giáo dục xưa, về những quan niệm xưa, về cung cách “trọng nam khinh nữ” của những bậc cha mẹ cũng được Bà bộc lộ rất rõ nét trong giai đoạn này.

 

Trong những tác phẩm trước, hai hình tượng được tác giả tô đậm nét nhất là người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa và phụ nữ. Hình tượng thứ ba cũng được tác giả đề cập đến với rất nhiều cảm mến, đó là người y-sĩ Quân Y. Riêng trong Tìm Vết Chân Xưa, bóng dáng người y-sĩ Quân Y được tác giả đưa vào truyện bằng những dòng văn hết sức xúc tích, lãng mạn, gợi cảm và thiết tha. Cũng bằng những dòng văn đó, ngòi bút của Điệp-Mỹ-Linh đã tỉ mỉ gợi lại kỷ niệm xưa.

 

Trong khi Ugo Betti cho rằng “Memories are like stones, time and distance crack them like acid” thì, dưới ngòi bút của Điệp-Mỹ-Linh, kỷ niệm không những vẫn nguyên vẹn, không bị thời gian và acid xoi mòn, mà lại còn trở nên đậm đà, sống động:

 

“... Sự thiếu vắng hai hàng cây muồn khiến Bảo-Trân tiếc ngẩn tiếc ngơ như tiếc nỗi rộn ràng của đứa bé gái trên chuyến xe lửa trở về quê Nội sau bao nhiêu năm dài theo gia đình tản cư ra “vùng giải phóng”! Ngày đó, xe lửa vừa qua khỏi vườn dừa ở Chợ-Mới, ông Dư đã chỉ cho Bảo-Trân khoảng không gian êm ả bên trái con tàu: ‘Tới Nhatrang rồi đó, con! Đây là Mã-Vòng. Qua khỏi Mã-Vòng là nhà ga.’ Bà Dư tiếp lời chồng: ‘Hồi con mới biết đi, Ba má đem con từ Dalat về thăm Nội. Khi xe lửa vừa vào nhà ga, máy bay Nhật ào đến thả bom. Nhà ga sập, không biết bao nhiêu là người chết!’ Giọng ông bà Dư đượm chút bùi ngùi, nhưng vì còn nhỏ, Bảo-Trân không nhận biết được nên lòng bé chỉ thấy xôn xao vui thích khi nhìn những đóa hoa vàng nở rộ trên hai hàng cây muồn khẳng khiu. Phải hơn bốn mươi năm sau, nhân chuyến từ bên kia địa cầu trở về quê Nội, Bảo-Trân mới hiểu được tại sao ngày đó, trên chuyến xe lửa từ Ninh-Hòa vô Nhatrang và suốt những ngày sống trong trại tạm cư ở Xóm-Mới, lúc nào gương mặt ông bà Dư cũng buồn buồn và giọng nói thường đượm nhiều xót xa...” ( Tìm Vết Chân Xưa, trang 58)

 

Chỉ qua một đoạn văn ngắn này tác giả đã đưa người đọc lùi lại dòng Việt sử để người đọc nhận ra được sự điêu linh/khốn khó của quê hương cũng như thân phận và tâm trạng của những người cùng thế hệ với Bà.

 

Kỷ niệm của Điệp-Mỹ-Linh (tôi mạo muội nghĩ như thế, vì tôi cứ bị nhập nhằn giữa nhân vật và tác giả) sau khi hồi cư trở về “vùng bị chiếm” thì bùi ngùi xót xa đến như thế; còn kỷ niệm của Điệp-Mỹ-Linh khi sống trong “vùng giải phóng” thì như thế nào? Xin mời độc giả đọc tiếp đoạn sau đây:

 

“... Trên sân khấu, ánh sáng hơi nhạt, chỉ đủ cho khán giả thấy đôi lưỡng quyền nhô cao, hai vùng má trũng sâu cùng đôi mắt lạc thần của các diễn viên đang run rẩy lê bước. Văng vẳng sau hậu trường, ban đàn giây hòa tấu bản Đói Lạnh. Vở kịch kéo dài bằng những lời đối thoại gay gắt, lên án sự tàn bạo, dã man của chế độ Phát-Xít.

Đến màn cuối, giữa khi tinh thần khán giả hoàn toàn bị khung cảnh và âm thanh chi phối, Bảo-Trân, đã được hóa trang thành một bé gái đói hom hem và rách tả tơi, gượng đứng lên giữa đoàn người đi xin ăn, cất giọng run run như sắp khóc, tay ôm bụng, gương mặt nhăn nhó như cơn đói đang hành hạ rồi gào lên nho nhỏ: ‘... Vì đâu, từ ba bốn hôm nay không ăn? Nhà không có, áo quần nay không còn ... Trời ơi! Đói quá đi thôi! Rét quá đi thôi!....’ Tám tiếng sau cùng được một tập hợp âm thanh nhiều bè hát theo từ sau hậu trường, nghe rền rền như vang lên từ cõi chết!

Một tù binh Pháp xúc động quá, sẵn đang cầm mẫu bánh mì nguội trong tay, anh ta thảy lên sâu khấu. Bảo-Trân đột ngột ngưng hát, lượm ngay miếng bánh mì, ăn ngấu nghiến như một đứa bé thật sự sắp chết đói!...” (Qua Làng Sơn-Tịnh, trang 80).

 

Qua đoạn này tôi nhận thấy bút pháp của Điệp-Mỹ-Linh tạo được sự bất ngờ rất thú vị, phảng phất chút kịch tính, nhưng không có dấu vết của sự cường điệu. Điệp-Mỹ-Linh không cần lên án ai cả, nhưng hành động bất ngờ của diễn viên tí hon trong đoạn này đã nói lên tất cả thảm cảnh của một xã hội lầm than trong “vùng giải phóng”!

 

Khi diễn tả về sự ấm no hạnh phúc dưới sự cai trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Điệp-Mỹ-Linh viết:

 

“... Xe chạy dọc theo bờ đê mà, ở những đoạn bờ đê thấp hoặc bị vỡ, Bảo-Trân nhìn vào, không thấy nước trong lòng sông, chỉ thấy cây bắp và vài loại rau cải. Bảo-Trân khoèo vai Ninh, hướng dẫn viên du lịch, hỏi nhỏ:

- Đây là sông gì, Ninh?

- Dạ, đây là sông Hồng.

Thốt nhiên Bảo-Trân cảm thấy xúc động một cách nhẹ nhàng. Thì ra dòng sông đã gieo cảm hứng cho không biết bao nhiêu nghệ sĩ di cư là dòng sông này! Bảo-Trân chỉ ra bờ đê:

- Tại sao người ta lại trồng hoa màu trong lòng sông, nhỡ nước lên thì sao?

- Dạ, ở đây đất hiếm và dân nghèo lắm. Họ trồng theo mùa. Họ phải tính làm sao khi vừa thu hoặch hoa màu xong thì đúng vào mùa nước lớn.

- Nếu vậy, sang năm, đến khi nước ròng, làm sao họ biết được khu vực nào thuộc về họ?

- Dạ, họ cắm sào, đánh dấu cả đấy.

Bảo-Trân im lặng, cảm thương cho cảnh nghèo của những người đã một thời được tuyên truyền để tin tưởng rằng sau khi giải phong được miền Nam, cuộc sống sẽ khá hơn, vì xã hội không còn giai cấp nữa!...” (Dưới Bóng Cổ Thụ, trang 110).

 

Chỉ vài đoạn trích dẫn ngắn, độc giả cũng có thể đồng ý với tôi rằng nhà văn chỉ trình bày sự việc; còn cảm nhận hoặc phê phán Điệp-Mỹ-Linh dành trọn quyền cho độc giả.

 

Chỉ bảy truyện ngắn, với những diễn tiến lớp lang, độc giả có thể nhìn xuyên suốt những biến chuyển xã hội trên quê hương Việt Nam qua bao thời kỳ đao binh. Tác giả viết về những giai đoạn đó bằng một tấm lòng rất nhạy cảm, rất bao dung, chan chứa tình người. Bối cảnh làm nền cho những giai đoạn đó lại là những đoạn tả cảnh hết sức linh động, khiến người đọc cảm thấy thương nhớ quê nhà và chỉ muốn trở về. Riêng truyện cuối, Vết Đau Xưa, tác giả đã bộc lộ rõ rệt tư tưởng phản kháng của Bà về những tập tục khắc nghiệt mà xã hội Việt Nam đã phủ chụp lên thân phận người phụ nữ Việt Nam. Và đoạn kết của tập truyện cũng rất khác lạ, vì tác giả lấy đoạn kết của truyện đầu tiên, Cuộc Tình Xót Xa, làm đoạn kết cho toàn tập truyện. Người đọc yêu thích văn của Điệp-Mỹ-Linh vì sự đãi lọc chi tiết thâm thúy, câu văn trong sáng, ý tưởng sâu sắc, đậm đà. Khi viết về một mối tình cao thượng tác giả biết dừng lại đúng lúc để làm cho người đọc cảm thấy còn thèm đọc tiếp.

 

Đọc truyện của Điệp-Mỹ-Linh, người đọc cứ miên man, chìm đắm với suy tư của nhân vật rồi bị tác gỉa dẫn dắt vào vùng kỷ niệm lúc nào không hay.

 

Sở dĩ độc giả khó nhận biết những khoảng chuyển tiếp giữa thực tại và quá khứ, giữa hư cấu và hiện thực là vì tác giả đã dùng thuật ngữ để chuyển mạch một cách rất tài tình. Đặc điểm này của Điệp- Mỹ-Linh được Điệp-Mỹ-Linh khai thác trọn vẹn khi thực hiện tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa. Thật vậy, sau khi đọc xong bảy truyện ngắn, gấp sách lại tôi mới nhận ra đây là một chuyện dài biến thể.

 

Tôi nhận xét như thế không phải vì nhân vật nữ chính, tên Bảo-Trân, xuất hiện trong tất cả bảy truyện mà là vì biến chuyển của những mẫu chuyện được dàn trải gần như theo thứ tự thời gian, không gian và tình cảm của nhân vật.

 

Kết luận của những tác phẩm của Điệp-Mỹ-Linh, đặc biệt nhất là trong Tìm Vết Chân Xưa, thường được bỏ lửng, để tùy độc giả tưởng tượng thêm hoặc là để độc giả cảm thấy tiên tiếc, như chưa muốn câu chuyện dừng lại ở đó.

 

Tìm Vết Chân Xưa là một cuốn sách in rất đẹp, rất trang nhã và đây là một truyện dài biến thể, một thể loại mới mà Điệp-Mỹ-Linh đang dò dẫm (chữ của Điệp-Mỹ- Linh, đăng trên Ngày Nay Houston) chứ không phải truyện dài được chia ra nhiều chương và nhiều hồi.

 

Ngoài ra, Điệp-Mỹ-Linh còn lồng vào câu chuyện những dòng thơ hoặc những đoạn nhạc rất thích hợp và rất tự nhiên; tự nhiên như khi ta ăn một bát phở, muốn cho ngon hơn, ta cho vào tý tiêu, tí chanh vậy. Kỹ thuật trích dẫn những đoạn nhạc còn cho thấy Điệp-Mỹ-Linh là một người có trình độ nhạc lý cao.

 

Để kết luận bài viết này, tôi xin cảm ơn nhà văn Điệp-Mỹ-Linh và tôi cũng xin được giới thiệu đến quý độc giả tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa với tất cả sự trang trọng và sự thành thật của một người cầm bút.

 

PHỤNG HỒNG

 



 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.