Biển Đông và những con số
Hồ Thanh Nhã
Sự kiện người dân Việt Nam vượt biển tìm tự do, sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, được coi như là một cuộc di dân lớn làm rúng động lương tâm nhân loại đồng thời cũng là một bi kịch của giống nòi, đau thương và đầy nước mắt.
Trong hành trình tang tóc đó, một số người may mắn thì được đến bến bờ tự do. Số còn lại hẩm hiu hơn lại vùi thây trong lòng biển cả hoặc gặp nhiều nghịch cảnh éo le như bị cướp, bị hảm hiếp, bắt cóc theo tàu hải tặc rồi sau đó chẳng ai biết số phận sẽ ra sao? Sau nầy nghe các đài phát thanh ở Mỹ trong Các Mục : Tìm người thân thất lạc, mới thấy nảo lòng làm sao. Còn những người may mắn hơn, đến được các đảo, tạm trú một thời gian ít năm, chờ thanh lọc. Họ được một nước thứ ba nào đó tiếp nhận, thì hoan hỉ lên đường với 2 bàn tay trắng, tạo lập một cuộc sống mới, nhận nước chủ nhà là quê hương thứ hai:
Ra đi biết mặt trùng khơi
Biết trời Âu Á, biết tôi hãi hùng. (Phạm Duy)
Theo tài liệu lưu trữ của Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc thì trong khoảng 20 năm từ 1975 đến 1995 thì có đến 796,310 người từ Việt Nam vượt biển đến được bến bờ tự do. Thế giới gọi họ là Thuyền Nhân (Boat People), vì họ ra khơi bằng những thuyền tàu nhỏ, không có khả năng đi biển. Thế mà họ vẫn đi, thử liều với số phận. Đúng là hai chữ Tự Do có cái giá quá đắt.
Và cũng theo số liệu của Indonesia thì từ năm 1975 đến 1996, trại tị nạn đảo Galang đã tiếp nhận hơn 250 ngàn thuyền nhân Việt Nam.
Vì chuyện vượt biển trên những chiếc thuyền con đầy nguy hiểm, làm xúc động nhiều người trên thế giới, nên một số các tổ chức thiện nguyện đã phát động phong trào cứu thuyền nhân trên biển. Gồm có: Hội Y Sĩ không biên giới với con tàu Ile de Lumiere của Bác sĩ Bernard Kouchnee. Con tàu nầy sau đó dung làm tàu Bịnh viện, chữa trị cho 40 ngàn người Việt tị nạn ở đảo Pulau Bidong.
Ở Pháp, cuối thập niên 1970 xuất hiện ủy ban : Một con tàu cho Việt Nam (Un bateau pour le Viet Nam).
Cũng hưởng ứng lời kêu gọi đó, tổ chức thiện nguyện ở Đức cho ra khơi 3 con tàu mang tên là: Cap Anamur vớt người tị nạn biển Đông.
Ủy ban Báo nguy giúp người vươt biển do Tiến sĩ Nguyễn Hữu Xung làm chủ tịch.
Thuyền nhân tại các trại Tị nạn có số lượng như sau:
Malaysia:-254,495 người
Hồng Kong:- 195,833 người.
Indonesia: 121,708 người.
Thái Lan: 117,321 người.
Philippine: 51,722 người.
Syngapore: 32,457 người.
Ngoài ra có các nước khác ít hơn là: Nhật Bản:11,071 người –Macao: 7,128 người – Nam Hàn: 1348 người.
Cho Định cư: - Tổng cộng tính đến 1995, Quốc tế đã nhận cho thuyền nhân Việt Nam định cư là:-754,800 người. Trong đó các nước sau đây đã tiếp nhận:
Hoa Kỳ :- 424,000 người.
Úc -111,000 người.
Canada: -163,000 người.
Các nước Châu Âu thì ít hơn.
Sau đây xin mời quí vị thưởng thức bài thơ: Biển Đông.
Biển Đông
Người đi ra biển Đông
Trùng dương muôn lớp sóng
Chiếc thuyền sao bé bỏng
Chở bao niềm ước mong
Người vừa thoát cửa sông
Tàu biên phòng rượt đuổi
Tràng liên thanh đỏ chói
Chấm dứt đời long đong
Người đi về thiên thu
Tháng Ba mùa lặng gió
Biển dù không bão tố
Bỗng chốc dậy mây mù
Vừa thoát ách ngưu đầu
Gặp ngay loài mã diện
Chiếc thuyền con trên biển
Trăm oan hồn về đâu?
Con tàu lạ đâm ngang
Chơi vơi bờ sinh tử
Bên kia bầy thú dữ
Rực đỏ mắt hung tàn
Người chết trên mạn thuyền
Máu loang vùng biển tối
Trẻ thơ chưa biết nói
Vật vờ làn nước đen
Những bào thai hải tặc
Chín tháng trời cưu mang
Chén cơm chan nước mắt
Não nề miệng thế gian
Con thuyền trong đêm tối
Sóng lớn dậy trùng dương
Điên cuồng cơn bão tới
Rước người về thủy cung
Lời đồng dao đây đó
Câu sấm truyền lan xa
Bao giờ Minh chúa hiện?
Mười phần chết còn ba
Đêm nhìn sao Bắc đẩu
Đối chiếu hướng hải đồ
La bàn kim bất động
Mặt kính mờ nước mưa
Con thuyền không bánh lái
Sóng nước đùa nhấp nhô
Mười ngày đêm chịu đói
Thủy táng mồ trẻ thơ
Oan hồn từ muôn phương
Kết tụ vầng mây xám
Bao cuộc đời ảm đạm
Nằm dưới đáy trùng dương
Mênh mông bờ vô định
Nghiệp báo chín tầng sâu
Giống nòi còn nhận lãnh
Quả báo đến khi nào?
Người đi về biển Đông
Thấy chết từ trên bến
Ba phần trôi trên biển
Bảy phần cõi mông lung…
Trong tận cùng tuyệt vọng
Niệm hồng danh Quan âm
Ánh mắt mờ trông ngóng
Lời cầu kinh âm thầm
Con thuyền vô khẳm nước
Tàu kéo về Bidong..
Thuyền nhân oà tiếng khóc
Thấy mái nhà Galang
Oan hồn trôi lênh đênh
Nhấp nhô đầu ngọn sóng
Nghĩa địa buồn không tên
Bờ quạnh hiu quên lãng…
Một hôm đoàn người về
Nén nhang bờ hải đảo
Lời cầu kinh siêu độ
Về thế giới bên kia
Hồn về từ chân mây
Hồn nương theo ngọn sóng
Hồn bay theo gió lộng
Về chứng giám hôm nay…
Lời cầu kinh giải oan
Lan xa đầu ngọn gió
Hồn nương ánh sương tan
Ngàn thu miền tịnh độ…
Hồ Thanh Nhã