Hôm nay,  

Có Nên Khôi Hài Trong Khi Thuyết Pháp?

19/04/201914:12:00(Xem: 4413)
Có Nên Khôi Hài Trong Khi Thuyết Pháp?
  
Thiện Quả Đào Văn Bình
  
 
            Những năm gần đây do Phật Giáo hưng thịnh, phong trào tu học và tìm hiểu đạo Phật của quần chúng gia tăng cho nên đã có khá nhiều giảng sư được đào tạo hẳn hoi đứng ra thuyết pháp để đáp ứng nhu cầu. Theo dõi một số bài thuyết pháp ở trong nước tôi nhận thấy có vài thầy dùng cách bông đùa, pha trò, khôi hài để dẫn dụ thính chúng. Tuy nhiên sự bông đùa, pha trò lại đi quá xa khiến buổi thuyết pháp mất tính trang nghiêm trong tinh thần học đạo, tu đạo.
 
Việc giảng sư nói chuyện khôi hài hình như chỉ thấy ở trong nước chứ không thấy ở hải ngoại. Tôi không dám nói- có thể vì trình độ hiểu biết của Phật tử hải ngoại cao hơn cho nên quý thầy không dám bông đùa? Còn trong nước thì trình độ hiểu biết của Phật tử thấp cho nên quý thầy tha hồ tung hoành, muốn nói gì thì nói, coi Phật tử như “con cháu trong nhà”? Thế nhưng tôi mong rằng điều suy đoán này của tôi là sai quấy.
 
            Trước khi tìm ra một số mẫu mực hay khuôn thước khi thuyết giảng, chúng ta thử tìm hiểu xem thuyết pháp hay giảng đạo là gì?
-Thuyết pháp là giảng giải kinh điển của Phật, lời dạy của Phật, của chư Tổ cho thính chúng mà những điều này thính chúng Phật tử chưa biết hay hiểu biết chưa trọn vẹn.
-Giảng dạy cách tu hành của Phật, chư vị Bồ Tát, các thánh tăng và của chính mình để quần chúng noi theo.
-Giảng giải về một pháp môn tu nào đó chẳng hạn như Thiền, Tịnh Độ, Pháp Hoa, Mật Tông…
-Giúp Phật tử cách tu hành tại gia như thiết lập bàn thờ, ăn chay, tụng kinh niệm Phật, giữ giới…
-Cũng có khi buổi thuyết pháp tập trung vào đề tài Đạo Phật là gì, lịch sử Phật GiáoViệt Nam, các phong trào Phật Giáo trên toàn thế giới, so sánh Phật Giáo với các tôn giáo khác, vai trò của Phật Giáo đương đại, tương lai của Phật Giáo đi về đâu? Phật Giáo thuận lợi và những thách thức như vấn đề cải đạo và suy thoái của tăng ni.
 
            Nhìn vào những đề mục tiêu chúng ta thấy thuyết pháp bao trùm những vấn đề lớn của con người và có khi nó được đặt vào chỗ linh thiêng nhất của tâm hồn, đó là Tâm Linh. Tại sao tôi dám nói thế? Bởi vì giảng pháp là:
-Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến chúng sinh. Tức giúp cho chúng sinh nhìn thấy, hiểu thế nào là Phật và giáo lý của Phật, cho chúng sinh thấy tất cả những đức tính cao đẹp, thánh thiện nhất đều có trong con người của chúng sinh, đó là Phật tánh.
-Giáo hóa chúng sinh từ phàm phu biến thành hiền thánh. Từ con người hung dữ biến thành thiện lương. Từ đứa con ngỗ nghịch biến thành hiếu thảo, từ người vợ hung dữ  trở thành hiền thục, từ người chồng hư thân mất nết trở thành chồng tốt . Đạo Phật còn có khả năng chuyển hóa một xã hội tăm tối, đầy hận thù thành xã hội biết yêu thương nhau và biết tin vào ngày mai. Xa hơn đạo Phật có thể đem lại hòa bình cho thế giới này. Giảng pháp, thuyết pháp hay giảng đạo có mục tiêu cao cả như thế cho nên không thể coi thường mà phải hết sức thận trọng.
 
            Nhìn vào cách thuyết pháp của Phật, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm gì?
-Đức Phật luôn luôn ở trong Chánh Định cho nên thái độ, cử chỉ của Phật rất ôn tĩnh. Do đó giảng sư cũng phải vậy. Tâm ý phải ổn định, không nên bị khích động, bồn chồn, lo lắng hoặc quá vui trong khi giảng pháp hoặc bị chi phối bởi đạo tràng nhiều hay ít.
-Giọng nói của Phật rất trầm ấm cho nên giọng nói của giảng sư cũng phải êm dịu, rõ ràng, dễ nghe, không vội vã (nhanh quá) nhưng không ề à khiến đại chúng buồn ngủ. Nhớ không bao giờ được nói to quá hay dùng những lời nặng nề chứng tỏ mình đang bực dọc hay cáu giận chuyện gì đó.
-Phật nói ra là Kinh. Lời Phật không thừa, không thiếu. Chính vì thế mà giảng sư phải tránh những lời thừa thãi làm loãng nội dung và làm Phật tử mất tập trung. Giảng sư phải thận trọng từng chữ, từng lời, từng ý không được buông lung, phóng túng. Trong khi thuyết pháp, đầu óc giảng sư phải làm việc - còn hơn cả cái máy.
-Khi giảng pháp, hai tay Đức Phật để lên nhau và đặt trong lòng cho nên giảng sư không được khoa chân, múa tay như thể diễn thuyết ngoài đời, khiến mất oai nghi của người xuất gia.
-Đức Phật tuy hết sức từ bi nhưng lại hết sức oai nghi cho nên cả đời không bao giờ Phật nói lời bông đùa, giỡn chơi, vui chơi. Cho nên giảng sư không được tếu, vui đùa, chọc cười thính chúng giống như mấy ông hề chọc cười khán giả. Xin nhớ, đạo tràng không phải là sân khấu. Phật tử đến đây để cầu pháp chứ không phải mua vui. Phật tử trang nghiêm như thế nào thì giảng sư cũng phải trang nghiêm, thành kính như thế. Tuy nhiên không vì thế mà quá nghiêm nghị, cứng nhắc khiến đạo tràng trở nên quá khô khan, ngẹt thở. Mở đầu buổi giảng pháp, giảng sư có thể nói lời chào mừng thính chúng, chẳng hạn như, “ Quý vị có khỏe không? Ngày hôm qua và hôm nay gia đình có an vui không?  Việc tu học của quý vị có tinh tấn hơn không?”
-Đức Phật luôn nói lời Chánh Ngữ cho nên lời dạy của Phật trở thành kinh điển, mẫu mực cho cả Trời người. Do đó giảng sư không được dùng những loại ngôn ngữ đường phố, chợ búa, tiếng lóng trong khi giảng pháp dù là kể chuyện đời. Lời nói của giảng sư phải là lời nói của bậc trí thức. Thí dụ, giảng sư không thể nói, “Lời Phật dạy thật ấn tượng” mà phải nói, “Lời Phật dạy đã thấm vào lòng người, đã làm chúng ta phải suy nghĩ.” Tuyệt đối không được chen vài câu tiếng Anh vào để tỏ ra ta đây giỏi tiếng Anh. Nếu giỏi tiếng Anh thì nên có buổi giảng pháp bằng tiếng Anh cho Phật tử nước ngoài.
-Xin nhớ Đức Phật luôn luôn tôn trọng thính chúng. Trong nhiều pháp hội, dù chỉ một vị Bồ Tát thưa hỏi nhưng lại có cả trăm vị Bồ Tát hiện diện để ủng hộ cũng như học hỏi thêm. Do đó, giảng sư phải hiểu rằng trong số thính chúng đang ngồi trước mặt đây, có thể có rất nhiều vị giỏi hơn mình gấp bội. Nhưng họ đến đây để hộ pháp hay vì thương mến chùa mà họ đến chứ không phải họ không biết gì cả. Do đó giảng sư không nên hỏi, “Quý Phật tử có hiểu thầy nói gì không?” rồi có khi lại bắt Phật tử nhắc lại những lời mình giảng giống như cô giáo bắt học trò nhắc lại bài học. Để cho đại chúng hiểu rõ lời dạy, Đức Phật cuối bài giảng đểu dùng kệ (thơ) để tuyên lại nghĩa mà Phật vừa giảng. Như vậy, cuối thời giảng, để cho chắc ăn, giảng sư có thể tóm lược lại những gì đã trình bày hoặc dành thời gian cho đại chúng đặt câu hỏi cho rõ nghĩa.
-Xin nhớ, nếu giảng sư coi thính chúng như những người ngu độn không biết gì thì sẽ có thái độ khinh thường, phóng túng. Nếu giảng sư coi thính chúng là những thiện tri thức tham dự pháp hội để cùng nhau tu học thỉ giảng sư sẽ phải hết sức thận trọng. Chẳng hạn khi giảng sư nói chuyện với sinh viên. Sinh viên có thể không biết, không hiểu về Phật pháp nhưng họ có kiến thức cao của ngoài đời cho nên họ có đủ trình độ phê phán những gì giảng sư nói. Điều này cho thấy không phải giảng sư muốn nói gì thì nói. Ngay tổng thống của một quốc gia, khi nói chuyện trước lưỡng viện quốc hội, diễn văn phải soạn trước, rồi có máy nhắc (telepromter). Bởi vì lỡ lời sẽ đưa tới hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Giảng pháp Phật còn phải thận trọng hơn thế nữa.
-Hầu hết trong mọi pháp hội nói kinh Đại Thừa, khi Phật thuyết pháp đểu có chư thiên, long thần hộ pháp, thậm chí các quỷ vương tham dự. Do đó, giảng sư phải hết sức thận trọng. Biết đâu có chư thiên đang đứng ở trên, hoặc giả các vong linh chưa đầu thai đến nghe pháp hoặc có long thần, thổ địa hộ trì…cho nên phải thuyết pháp với lòng cung kính…chứ không thể bừa bãi. Ỷ y, phóng túng, phước đâu không thấy mà chỉ thấy tội.
-Thuyết pháp là một sứ mạng cao cả, một lời hoằng thệ truyền bá giáo lý của Phật, một hình ảnh sống động của Phật  và giáo pháp của Phật cho nên phải hết sức thành kính.
-Sau hết xin nhớ, giảng sư thuyết pháp không phải là tâm lý gia trị liệu. Dù Phật pháp bao trùm lên tâm lý học, nhưng cứu cánh của nó là cứu khổ và giải thoát toàn diện con người, biến con người thành Phật chứ không phải dùng để chữa bệnh như vợ chồng  ghen tuông, cãi cọ, đâm chém nhau. Muốn giải quyết những căn bệnh này xin mời gặp các nhà tâm lý. Còn như muốn thoát khỏi mọi khổ đau trên cõi đời nay thì xin tìm đến Phật. Do đó giảng sư đừng sa đà vào lý luận của tâm lý gia, khiến xa lìa giáo lý của Đức Phật nhằm chuyển hỏa mọi khổ đau bằng cách chuyển hóa ngay chính nội tâm/đầu óc của chính mình, điều mà các nhà tâm lý trị liệu không có.
 
Tạm kết luận:
            Thuyết pháp là một hình thức của hoằng dương chính pháp, tu học và tạo ảnh hưởng rất lớn lên tín đồ. Để trở thành một giảng sư lớn không phải dễ. Phải có căn cơ, phải có lời hoằng thệ, “Tôi nguyện từng giây từng phút giữ gìn chánh niệm, thấu rõ lời Phật dạy và truyền đạt tới đại chúng bằng tấm lòng thành kính và tâm ý không được buông lung, phóng túng khiến diễn đạt sai lời Phật dạy.”
 
Xin nhớ giảng sư chưa phải là người tu hành đắc đạo. Bậc đạo sư chứng quả có khi cả đời không nói một lời. Thế nhưng khi nói ra thì như sấm nổ. Chẳng hạn như  “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” của Đạt Ma Tổ Sư. Hay như, “Không Giới-Định-Huệ thì lấy gì để giảng dạy người ta?” của Đức Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ. Cũng như một số rất đông, nhất là Tây Phương đã gọi Đức Đạt Lai Lạt Ma là “Phật sống”. Thế nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma lại nói rằng đừng tầm bậy mà gọi tôi là “Phật sống”. Tôi chỉ lả đệ tử của Phật.
 
Kính mong quý vị chân tu, thạc đức đóng góp thêm để hình thành một khuôn mẫu thuyết pháp cho các giảng sư giữa thời kỳ Phật Giáo phát triển nhưng đầy thách thức như ngày hôm nay.
Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 18/4/2019)


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.