Hôm nay,  

Tiếng Việt: Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển

08/10/201809:38:00(Xem: 6071)

TIẾNG VIỆT: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
 

Mục sư Phan Phước Lành, Tiến sĩ

“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!  Mẹ hiền ru những câu xa vời.  Ầu ơi, tiếng ru muôn đời.”

Tiếng Việt là một báu vật diệu kỳ mà Trời đã ban cho dân tộc Việt Nam.  Hậu tự sinh ra và được hưởng một kỳ công như vậy, thật lòng mà nói, chúng ta phải biết ơn những người đã dày công tạo nên Tiếng Việt.

Quá trình hình thành và phát triển Tiếng Việt có thể chia ra bốn giai đoạn như sau:

Chữ Việt Cổ (Trước Thế Kỷ Thứ Hai)

Chữ Hán (Từ Thế Kỷ Thứ Hai)

Chữ Nôm (Từ Thế Kỷ Thứ 10)

Chữ Quốc Ngữ (Từ Thế Kỷ Thứ 17)

 

CHỮ VIỆT CỔ 

Người Việt đã có ngôn ngữ riêng của mình trước khi bị đô hộ bởi nhà Hán từ phương Bắc.  Nước Văn Lang thời các Vua Hùng đã có ký tự.  Bằng chứng cụ thể nhất là thời kỳ Trống Đồng Đông Sơn (700TCN – 100SCN) đã có ghi khắc chữ Việt Cổ.

blank

Nhiều cây bút của Việt Nam như Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm, Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, và ngay cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Pháp, Mỹ và Trung Quốc đều đã khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng trước khi chữ Hán du nhập vào.  Gần đây thầy giáo Đỗ Văn Xuyền có một bài nghiên cứu thật hay về đề tài này sau khi đã tìm đến 18 ngôi đền cổ để nghiên cứu về chữ Việt thời các Vua Hùng.

 

CHỮ HÁN

Chữ Hán là một dạng chữ viết biểu ý của tiếng Trung Quốc.  Chữ Hán đã du nhập vào Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam và tạo nên một vùng có sự ảnh hưởng của văn hóa Hán Tộc. 

Có ý kiến cho rằng chữ Hán đã hiện diện ở Việt Nam từ trước Công Nguyên.  Tuy nhiên, ý kiến này không được chấp nhận bởi nhiều nhà nghiên cứu.  Theo Đào Duy Anh, chữ Hán du nhập vào Việt Nam dưới thời của Thái thú Sĩ Nhiếp (137-226).  Gần 1000 năm Bắc Thuộc, hầu hết các thi văn khắc trên bia đều bằng chữ Hán.

 

CHỮ NÔM

Chữ Nôm là chữ của người Phương Nam để phân biệt với chữ Hán của người Phương Bắc.  Nôm có nghĩa là Nam.  Chữ Nôm được thành hình sau khi có hệ thống âm Hán Việt (âm của người Việt đọc chữ Hán) hiện hữu vào thời kỳ cuối nhà Đường (618-907) đầu nhà Tống (960-1279) tức là thế kỷ thứ 8 và 9.  Như vậy chữ Nôm chính thức hình thành sau thế kỷ thứ 9.  Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chữ Nôm được chính thức hình thành dưới thời của Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng (938), chấm dứt thời kỳ Bắc Thuộc, mở ra một thời kỳ độc lập lâu dài cho Việt Nam.

Thế kỷ 18-19 là thời kỳ cực thịnh của chữ Nôm.  Những nhà thơ nhà văn lớn xuất hiện trong thời kỳ này như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Ngọc Hân Công Chúa, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương…

Các Tác Phẩm Chữ Nôm Nổi Tiếng

  • Thạch Sanh, thể Lục Bát, Khuyết danh, cuối thế kỷ 18
  • Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu, giữa thế kỷ 19
  • Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca, dưới triều vua Tự Đức
  • Lưu Bình Dương Lễ, 788 câu Lục Bát, Khuyết danh
  • Cung Oán Ngâm Khúc, 356 câu Song Thất Lục Bát, Nguyễn Gia Thiều
  • Phạm Công Cúc Hoa, 4610 câu Lục Bát, tác phẩm dài nhất, Dương Minh Đức Thị
  • Truyện Kiều, 3254 câu Lục Bát, tác phẩm nổi tiếng nhất, Nguyễn Du.

 

CHỮ QUỐC NGỮ

Tôi xin được chia sự thành hình và phát triển chữ quốc ngữ là bốn giai đoạn:

Giai đoạn phôi thai (Thế kỷ 17 đến 1932)

Giai đoạn phát triển (1932-1945)

Giai đoạn thăng hoa (1945-1975)

Giai đoạn phát huy (1975 đến hiện tại)
 

Giai Đoạn Phôi Thai (Thế kỷ 17 đến 1932)

Chữ Quốc Ngữ được hình thành từ  khoảng đầu thế kỷ 17 khi các giáo sĩ Tây Phương phiên âm Tiếng Việt bằng mẫu tự La-tinh để học, tiếp cận và truyền giáo cho Người Việt.  Tập thể của các giáo sĩ này là J. Roiz, G. Luis, C.Borri, Gaspar d’ Amaral, Antonio Barbosa và những người dân Việt đã giúp họ học tiếng Việt  (Trần Ngọc Thêm 2001, Đặc san Văn Lang 1992).  Tên gọi chữ quốc ngữ được dùng để chỉ chữ quốc ngữ lần đầu tiên vào năm 1867 trên Gia Định Báo (Matthew A. Marcucci, 2009 “Rendering Sinograms Obsolete: Vietnamese Script Reform and the Future of Chinese Characters”). 

blank

Khi mới ra đời, bộ chữ này có rất nhiều khiếm khuyết như chưa có các dấu thanh, chữ viết dính liền nhau và thiếu nhiều nguyên âm cũng như một số phụ âm đơn (đ, x, v) và phụ âm kép (ch, tr, gh, nh).  Cho đến khi Giáo sĩ Alexandre de Rhodes xuất bản cuốn Từ điển Việt-Bồ- La năm 1651 thì chữ Quốc ngữ mới thực sự được hoàn chỉnh và chuẩn hoá (Trần Văn Giàu, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, “Chữ Quốc ngữ trên đất Sài-gòn Gia- định những TK XVII –XVIII-XIX”, không rõ năm xuất bản). 

Những nhà văn tiền phong ấy là Trương Vĩnh Ký, Hình Tịnh Của, Trương Minh Ký, đã sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ quốc ngữ. Trong đó Trương Vĩnh Ký soạn và cho in ra quyển Chuyện Đời Xưa vào năm 1867, còn Hình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1895. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy.
 

Trương Vĩnh Ký Pétrus.  Tên thật của ông, là Trương Chánh Ký sau đổi thành Trương Vĩnh Ký, tên thánh là Jean Paptiste, tên chữ là Pétrus, tự Sĩ Tải. Vì vậy người ta thường viết tên ông là Pétrus Jean Paptiste Trương Vĩnh Ký, sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại làng Vĩnh Thành (tục danh Cái Mơn).  Dưới đây là một bài thơ của ông.

  Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
  Xô đẩy người vô giữa đời này.
  Học thức gửi tên con sách nát,
  Công danh rốt cuộc cái quan tài.
  Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
  Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài!
  Cuốn sổ bình sanh công với tội,
  Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.

blank 

Giai Đoạn Phát Triển (1932-1945)

1932-1945 là thời kỳ nở rộ của văn chương chữ Quốc Ngữ.  Trong giai đoạn này, chính quyền thuộc Pháp muốn tăng cường ảnh hưởng của tiếng Pháp và hạn chế ảnh hưởng của tiếng Hán tại Việt Nam.  Sự giảm sút của chữ Hán cũng dẫn đến sự suy giảm của chữ Nôm.  Dầu vậy, người Việt đáp ứng với Tiếng Pháp rất hạn chế, vì thế chính quyền thuộc địa Pháp bất đắc dĩ phải chấp nhận sự hiện hữu của chữ Quốc ngữ về văn tự.  Dựa vào cơ hội này các nhà trí thức Việt Nam muốn thoát khỏi sự ảnh hưởng của Hán ngữ và Pháp ngữ bằng cách vận động ủng hộ chữ Quốc ngữ trong công cuộc phổ biến tân học và lan truyền tư tưởng yêu nước.  Các phong trào cải cách như Hội Trí Tri, Phong Trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ.  

Tiếp theo những cuốn truyện của các nhà văn quốc ngữ tiên phong trong gần hai thập niên đầu thế kỉ XX là các nhà văn Hồ Biểu Chánh và Hoàng Ngọc Phách vào thập niên thứ ba thế kỷ XX, đến những cuốn tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên – Hồn bướm mơ tiên (1933) của Khái Hưng và Bướm trắng (1942) của Nhất Linh.  Chí sĩ Phan Bội Châu dùng thơ truyền thống để viết thư cho đồng bào mình (Hải ngoại huyết thư, Ngục trung thư, Lưu cầu huyết lệ tân thư,…), dùng văn chương quốc ngữ để soạn niên biểu (Phan Bội Châu niên biểu), viết văn tế (Văn tế Phan Châu Trinh).

 

Các thể loại văn chương “tổng hợp” như tiểu thuyết - phóng sự (Cơm thầy cơm cô, Kĩ nghệ lấy Tây – Vũ Trọng Phụng, Việc làng – Ngô Tất Tố, Đồng quê – Phi Vân); Truyện ngắn-trữ tình hóa (Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Cô hàng xén, Quyển sách bỏ quên, Tình xưa, Sợi tóc – Thạch Lam; Tình trong câu hát, Làng, Bến nứa – Thanh Tịnh); truyện ngắn-kịch hóa (Kép Tư Bền, Người ngựa, ngựa người, Mất cái ví, Tinh thần thể dục – Nguyễn Công Hoan; Bộ răng vàng, Bà lão lòa –Vũ Trọng Phụng); truyện ngắn-tiểu thuyết hóa (Chí Phèo, Đời thừa, Lão Hạc, Dì Hảo, Nửa đêm – Nam Cao; Mợ Du – Nguyên Hồng).
 

Giai Đoạn Thăng Hoa (1945-1975)

Thơ nhạc Tiền Chiến và Văn Chương Miền Nam đã góp phần làm thăng hoa chữ Quốc Ngữ.  Được hưởng một thể chế chính trị tự do, bên trong vĩ tuyến 17 là một mảnh vườn trăm hoa đua nở cho sự phát triển của văn chương và nghệ thuật bằng chữ Quốc Ngữ.

Cuộc di cư năm 1954 đã thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật miền Nam những nơi hoạt động mạnh là Huế, Qui Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ và nhất là Sài Gòn. Sài Gòn đã là nơi sinh hoạt báo chí và văn học nghệ thuật chủ yếu.  Nhiều nhà báo và văn nghệ sĩ gốc miền Trung và Bắc đã đến lập nghiệp hoặc cộng tác.  Giai đoạn văn học này có sự đóng góp của nhiều nhóm văn nghệ, tư tưởng hay tập trung ở các tạp chí như Sáng Tạo, Quan Điểm, Văn Hóa Ngày Nay, Nhân Loại, Văn Đàn, Bách Khoa, Văn Học, v.v.  Văn học miền Nam trước 1975 đã chứng tỏ một sức sống mãnh liệt, đa dạng, khai phóng, rộng mở đón nhận những trào lưu hoa văn học thế giới đông-tây.

Chữ Quốc Ngữ rất đa dạng là vì chức năng ghép thêm nhiều ngôn ngữ khác vào như chữ Hán, chữ Pháp, chữ Anh…
 

Giai Đoạn Phát Huy (1975-Hiện Tại)

Tiếng Việt khá phong phú trong lãnh vực văn chương, đặc biệt trong thơ ca, nhưng còn giới hạn nhiều trong các lãnh vực chuyên môn như y khoa và công nghệ.  Chúng ta, Người Việt trong và ngoài nước, cần phải phát huy Tiếng Việt để đáp ứng nhu cầu phát triển của thế giới đặc biệt trong các lãnh vực như: Khoa học, Khoa công nghệ, Khoa y, Khoa tâm lý, Khoa luật, và những lãnh vực mà chúng ta đang tiếp cận với thế giới văn minh nhưng còn giới hạn nhiều về ngôn ngữ. 

Vài đề nghị:

  • Tiếp tục sử dụng tiếng Việt cách thăng hoa và tích cực làm động lực cho giới trẻ yêu mến và học tiếng Việt.  Nhất là ở Hải Ngoại, khi con em chúng ta quen tiếng Anh và không thấy nhu cầu học tiếng Việt, làm sao để các cháu yêu thích Tiếng Việt là trách nhiệm của mỗi chúng ta.
  • Tăng cường hợp tác để dạy và phát huy Tiếng Việt tại nhà cũng như tại các trung tâm Việt Ngữ cách có hiệu quả.
  • Thành lập một Hàn Lâm Viện Chữ Quốc Ngữ Hải Ngoại để phát huy tiếng Việt một cách đúng đắn và chuẩn mực.  Hàn Lâm Viện này có thể lên tiếng khi có những cá nhân hay tổ chức cố ý sửa đổi Tiếng Việt cách lệch lạc như trường hợp của thầy giáo Bùi Hiền.
  • Tạo nên những từ vựng mới cho những lãnh vực chuyên môn vì có rất nhiều lãnh vực chuyên môn luôn biến chuyển mà Tiếng Việt chưa có hoặc chưa đủ từ vựng để sử dụng khiến chúng ta phải vay mượn rất nhiều tiếng nước ngoài.

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.