Hôm nay,  

Tiền Bối Của John Kelly Cũng Không Thể Hội Nhập

23/05/201811:21:00(Xem: 6777)

blank

 

Tiền Bối Của John Kelly Cũng Không Thể Hội Nhập

Nguyễn Thanh Việt
Tác giả là nhà văn và nhà giáo,
đã đến Hoa Kỳ dưới dạng tỵ nạn Việt Nam

  

Tôi đã quên bãng một kỷ niệm về mẹ tôi khi bà ngồi một mình, cất giọng đọc lớn từ một tờ thông báo của nhà thờ. Với trình độ học vấn tiểu học, đó là cách duy nhất bà có thể đọc. Là một đứa trẻ Mỹ lưu loát tiếng Anh, tôi thấy thương cho mẹ, và có lẽ, cũng len thêm một chút hổ thẹn.  

Ký ức đó đã trở lại trong tôi qua những lời nói của ông Chánh Văn Phòng Tòa Bạch Ốc John Kelly, khi ông tả những người di dân bất hợp pháp đến từ biên giới phía Nam như những người “khó có thể đồng hóa vào xã hội Hoa Kỳ, vào xã hội tân tiến của chúng ta.”  

“Họ hầu hết là dân quê mùa. Họ đến từ những xứ mà bình thường trình độ học vấn chỉ đến lớp bốn, năm, hoặc sáu. Họ không nói được tiếng Anh.” Ông Kelly nói, “Họ khó mà hội nhập được, họ đâu có kỹ năng chuyên môn nào. Họ không phải là người xấu. Họ có lý do để đến đây. Và tôi thông cảm với lý do của họ. Nhưng luật là luật.” 

Ông Kelly cảm thấy thương hại những người này. Trong số đó, cũng giống như mẹ tôi, có người sinh ra từ vùng thôn quê. Nhưng ông Kelly— như Tổng thống Trump, mới tuần trước đây đã gọi một số di dân trái phép nào đó là “đồ súc vật”— không thể thông cảm cho họ. Tầm nhìn lãnh đạm của họ lại được nhiều người Mỹ chia sẻ.     

Ngay cả một số bạn bè Việt-Mỹ của tôi, những người mà, dù đã đến đất nước này dưới dạng di tản tỵ nạn chiến tranh, cũng cho rằng Hoa Kỳ không nên nhận thêm bất cứ người tỵ nạn nào nữa, nhất là những người từ các nơi như Syria. Một vài người, như ông thị trưởng Mỹ gốc Việt của thành phố Westminster, California, nơi đông đảo dân Việt hải ngoại cư ngụ nhất, còn kêu lên rằng Hoa Kỳ không nên nhận thêm bất cứ người di dân trái phép nào nữa, vì trong bọn họ có cả “bọn tội phạm”.

Chúng ta là những người tỵ nạn lương thiện, họ lập luận như vậy. Còn dân mới đến là những người tỵ nạn xấu.   

Từng lớn lên trong cộng đồng tỵ nạn người Việt ở San Jose, California trong những thập niên 1970 và 1980, tôi có thể chứng nhận rằng đã có rất nhiều người tỵ nạn xấu trong chúng ta.  Gian lận phúc lợi. Lừa gạt bảo hiểm. Hối lộ. Bạo lực băng đảng, với biệt tài riêng đột nhập tư gia.

Tất cả những xấu xa đó đều đã được lãng quên. Người Mỹ gốc Việt giờ đây đã là phần tử của “thiểu số khuôn mẫu”, những người tin rằng họ đã tự thành đạt, đã không nhờ hoặc chỉ nhờ rất ít vào sự trợ giúp của chính phủ. Những người đó chẳng khác gì ông Kelly, hậu duệ của người di dân Ái Nhĩ Lan và Ý, gồm người lao động không có tay nghề với lõm bõm vài câu tiếng Anh. Quên lãng nguồn gốc là đặc tính chung của mọi người Mỹ, bởi chúng ta tin rằng đây là đất nước của sự khởi đầu.  

Điều mà một số người trong chúng ta thường quên là gần như trong mỗi thời điểm của lịch sử đất nước, những người đã được pháp luật công nhận là công dân Mỹ đều kiếm ra được những mục tiêu mới để gán cho cái tội không thể đồng hóa: dân bản địa, Mễ thua cuộc, dân nô lệ, hoặc những di dân mới, loại chung là dân-da-mầu.  

Năm 1751, ngay cả trước khi lập quốc, Benjamin Franklin đã viết rằng “Có lẽ tôi bị ảnh hưởng bởi cục diện của nước tôi, bởi tính thiên vị là điều tự nhiên trong nhân loại.“ Ông ưa chuộng “tiếng Anh” và “dân trắng,” và không muốn Pennsylvania trở thành một “thuộc địa của kẻ ngoại bang”, những kẻ “không bao giờ chấp nhận ngôn ngữ hoặc phong tục của chúng ta, cũng như họ không thể có được màu da như chúng ta”. Ông ám chỉ người Đức.     

Người Mỹ gốc Đức bây giờ được coi là “dân trắng”, phần vì màu da, phần vì cách suy nghĩ, và phần vì quan điểm.  Chính sự “trắng hóa” đó đã cứu người Mỹ gốc Đức để họ tránh cảnh bị tống hàng loạt vào các trại giam trong thời Đệ Nhị Thế Chiến như trường hợp dân Mỹ gốc Nhật. Từ những bài học lịch sử như vậy, ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy một số người Mỹ gốc Việt háo hức vứt bỏ quá khứ tỵ nạn của mình, luôn cả ký ức vì sao chỉ có 36 phần trăm dân Mỹ chấp nhận người Việt tỵ nạn sau 1975.     

Cái lựa chọn đó hiện hữu trong lòng mỗi di dân tỵ nạn và hậu duệ của họ. Ông Kelly và một số người Mỹ gốc Việt đã chọn quên đi quá khứ của mình hoặc thay vào đó, tự khoác cho mình và gia đình mình cái can trường, tự lập, tốt đẹp của người Mỹ, hơn hẳn những di dân hoặc tỵ nạn mới nhất, cũng như đầy đe dọa nhất.  Vì quên đi dĩ vãng, những người Mỹ này lại tái diễn cảnh khởi đầu của đất nước—với nỗi lo sợ triền miên đối với những ai đen đậm hơn, khác biệt hơn.   

Tôi chọn cái ký ức về lòng dũng cảm của mẹ tôi, và thưở ban đầu đó trước khi bà trở thành một công dân Mỹ và đổi tên thành Linda. Tên cúng cơm của bà là Bảy, số 7, vì gia đình người Việt đông con thường gọi con bằng số cho dễ, thay vì gọi tên. Cùng với bố tôi, với học vấn bậc trung học, mẹ đã vươn lên từ cảnh quê mùa nghèo khổ để trở thành một người thương gia thành công qua những quyết định rất liều lĩnh, trong đó quyết định đầu tiên là rời miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Bố mẹ tôi đành mất gần như tất cả trong sự chọn lựa liều lĩnh nhất để di tản sang Hoa Kỳ tỵ nạn năm 1975.                 

Khi tôi chứng kiến cảnh mẹ cất cao giọng đọc một mình, bà đã khởi sự làm ăn ở Mỹ được hơn chục năm rồi, và một lần nữa, đã trở thành một thương gia thành công. Bà bị bắn một lần ờ ngay trong tiệm bà, lúc đó tôi không có mặt, và một lần khác bị một tên cướp chĩa súng vào mặt tại nhà, lần này thì tôi đã chứng kiến.

Mẹ tôi không thạo tiếng Anh, nhưng trong công việc bà đã giỏi đủ để đóng góp tiền thuế nhiều hơn nhiều người Mỹ. Bà đã từng và luôn tục là người can đảm, nhưng nhiều người Mỹ coi bà chỉ là kẻ ngoại cuộc, kề cả cái người đã treo bảng trên cửa sổ một tiệm gần tiệm thực phẩm của bố mẹ tôi tại San Jose: “Thêm một người Mỹ mất kế sinh nhai vì dân Việt.”   

Nhờ những gì mẹ đã làm, giờ đây tôi đã ăn học thành tài và có một mái ấm, để tôi cũng có thể trở thành một người Mỹ dễ quên, nóng lòng muốn được những người Mỹ khác chấp nhận, và sẵn sàng chứng tỏ cái Mỹ tính của mình bằng cách ngăn chận những người như cha mẹ tôi vào đất nước này. Nhưng tôi tự cảm thấy mình là một trong những người Mỹ gốc Việt—và rât nhiều người trong chúng ta—đã không hề quên mình phải đồng hành với những người di dân và tỵ nạn, với người nghèo khổ và bị bỏ rơi, những người với hoàn cảnh rất giống mẹ tôi.

Bà có cần đâu lòng thương hại hay sự hổ thẹn của tôi.  Chỉ cần lòng bác ái và kính trọng.

(Nguồn https://www.nytimes.com/2018/05/19/opinion/sunday/john-kelly-refugees-immigration.html?smid=tw-nytopinion&smtyp=cur)

Web:www.pivotnetwork.org Facebook: https://www.facebook.com/PIVOTorg/ Twitter: @PIVOTorg

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.