Chúng tôi đến Merang vào lúc 16 H chiều ngày 19-3-1979. Thú thật tôi cũng không ngờ được là giây phút cuối cùng rời xa Pulau Bidong, nơi đã cưu mang tôi 140 ngày, nơi tôi biết thế nào là sự tủi cực khổ đau của đời lưu vong mất nước, kiếp ăn nhờ ở đậu..tuy nhiên tôi vẫn không nén đưọc nỗi xúc động và lưu luyến thật sự khi chia ly.
12 giờ trưa bước chân vào đồn cảnh sát Mã Lai để khám xét hành lý và lập thủ tục xuất trại. Sau đó qua công “La Sanh Môn” để bước chân xuống chiếc PRC4 rời đảo . Ôi còn gì cảm động cho bằng giây phút này ? Nhìn đồng bào đang đứng trên bờ vẫy gọi, cầu chúc, trao gởi, mới thấy thắm thía biết bao về tình dân tộc, nhìn những cặp mắt thiết tha dường như muốn rơi lệ của những người còn ở lại, mới đau lòng trong cảnh chia ly . Tôi tiếc cho mình không phải là một gã tài hoa để sống cảnh sinh tình, viết ngay những vần thơ diễm tuyệ gởi đến cho đồng bào, cho ta, để ghi lại tất cả những kỷ niệm của ngày xa đảo, để được đọc lại những buồn vui, đau khổ, trên bước đường viễn xứ .
-“Thôi mình biết nói gì đây ?
Khi buồn thương đã chất đầy trong tim
Mai này như một cánh chim
Trời thênh thang rộng biết tìm nơi đâu ?
Lũng, đèo buốt giá mưa ngâu
Biên cương nay đến, giang đầu mai qua
Rừng Sim non sẽ chín già
Tuổi hoa theo bóng ác tà lên non
Như đời trấn thủ lưu đồn
Bỏ công ngày tháng sách đèn đam mê
Nhưng thôi, dù có vương vấn, bịn rịn hay buồn đau thì tôi cũng đã xa Pulau rồi . Tôi đang đến trạm đầu tiên trên đường tiến về cổng thiên đường của nước Mỹ : Merang .
Đây là một trong những địa danh trên đất Mã Lai Á, nhưng cái tên này hầu như đã gắng liền trong tâm khảm của đồng bào tị nạn ở miền West Malaysia. Nó là một địa điểm tiếp liệu từ Trengganu xuôi về Kuala Lumpur . Nói rõ ra, Merang là nơi mà đồng bào tị nạn ở các trại Pulau Bidong, Besar và các trại giáp biên giới Thái Mã, đều phải đến đây nghỉ chân 1 vài ngày rồi lên đường về thủ đô lập thủ tục và chiếu khán để đi định cư ở đệ tam quốc gia .
Merang làm cho tôi cảm tình ngay, không phải nó với đầy đủ tiện nghi, không phải nó cho tôi tự do tối thiểu, mà vì Merang quá quen thuộc và gần gũi với tâm hồn tôi . Thật vậy, Merang giống Cam Ranh, cũng nằm ngay trên bờ biển Thái Bình Dương, chập chùng quanh quẩn là những núi đồi cao vút . Merang cũng nằm trên trục lộ chính . Merang cũng có những rặng dừa xanh thẳng tắp, điệp điệp mộng mơ . Nhưng chính Merang là nơi mà tôi lại sắp được gặp gỡ những người thân từ các nơi trẩy về .
Đêm nay tôi được ngủ lại Merang để mai lên đường dấn thân vào cõi gió bụi phù hoa làm lại cuộc đời mới, cuộc đời mà tôi biết chắc chắn sẽ là những nấm mộ đen che kín tâm hồn tôi, cuộc đời của một kẻ thất chí tan nhà . Nghỉ, nhớ và viết để tôi càng thêm ngậm ngùi .
Nằm yên lắng nghe những chiếc lá bên ngoài đang xì xào, nghe sóng vỗ bập bềnh, tâm hồn cũng lao xao, ray rứt, giữa đêm đen khi nghe tiếng con chim lạc lõng cất tiếng kêu thảm thiết, có khác chi cảnh ngộ của tôi giữa cuộc đời phù phiếm sắp dấn thân vào . Tôi cũng chỉ là một con én đang nhỏ hồn trong đợi những trận gió xuân ấm áp để xuôi về cõi trời Nam .
Thì ra cũng chỉ là những câu hỏi được lập đi lập lại, những chặn buồn trong điệp khúc của bản nhạc sầu vong quốc, khóe mắt tương tư của người mang mối tình lỡ với sự dày vò và hối hận của một tâm hồn đang gục chết, đang đi vào những lối quanh bế tắc, vây kín tơ nhện giăng lối về . Đi là sự nhớ thương triền miên cùng tận đã dành cho kiếp lưu đầy . Ôi rồi tôi sẽ phải làm gì cho tôi, cho gia đình, quê hương trong những ngày sắp tới .
Merang quả là nơi lý tưởng,nó không giống Bidong một điểm nào . Chúng tôi được tự do ra vào cửa từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, ăn uống mua sắm tự do nếu có tiền và các phương tiện tối thiểu dành cho một đời sống như nước, cơm, chỗ ngủ, chỗ tắm và giải trí đều có sẵn hơi thừa thải
Bởi thế tôi không thể quên nổi Merang dù đã xa lìa nó . Tôi sẽ nhớ lại những địa danh xa lạ cùng những người bạn Mã Lai trong cơn vui buồn . Tôi thầm cầu nguyện được trở lại quê hương Việt Nam để cùng non nước vui hưởng lại hạnh phúc như thuở thanh bình .
KUALA LUMPUR NHỮNG NGÀY DÀI CHỜ ĐỢI
8 giờ 30 sáng ngày 21-3-1979, chúng tôi đến trại tiếp liên Cheras ở ngoại ô thủ đô Kuala Lumpur của Mã Lai Á, sau một đêm dài trằn trọc, lao chao và mất ngủ trên xe bus.
Tôi không biết phải dùng danh từ gì để gọi cho đúng cảnh tượng mà từ đằng xa tôi đã thấy từ trong vòng rào kẽm gai với lố nhố những đầu, mặt, tay đang vẫy gọi cùng với những thanh âm le lói . Tất cả, tất cả dành cho người mới đến .
Tôi đã bước vào cổng trại Cheras, đi vào ngôi thánh đường trống rỗng đức tin, chỉ có người và người mà thôi . Vói nhìn chung quanh, trại được bao vây bằng những hàng rào kẽm gai cao vút, có lính gác nghiêm mật . Bên trong đen kịt những người chen chúc sống trên một diện tích vài trăm m2, tấp nập quanh rào, phía trước, bên hông, đằng sau là những đống rác to xù, chen chân với phân người, muỗi bọ và những người tị nạn từ khắp các nẻo đường Mã Lai Á đổ xô về đây để đợi chờ lên đường đi định cư.
Đời thật nản chi lạ, ở đâu trên đất Mã Lai này, cũng bằng thứ ấy thật giống nhau, được bày sẵn để dành cho người tị nạn . Tôi lại một lần nữa gia nhập vào cộng đồng của những tâm hồn lạc lõng để tham dự một cuộc hành xác, để đợi chờ một lần cuối cùng, mai xách gói ra đi, bỏ Mã Lai Á, bỏ ngôi giáo đường không, bỏ bạn bè và tất cả.
Hỡi ơi, suốt thời gian tạm trú ở đây với sự bảo trợ của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế dành cho người tị nạn VN t ại Mã Lai, hầu như không còn gì nữa để tôi phải nhắc đến . .
Tôi đã gặp lại những khuôn mặt quen thuộc ở nơi này. Tất cả đã méo mó, mệt mỏi, nên khi họ gặp tôi, họ đã ra dấu thánh giá như nhờ bề trên ban phước lành cho tôi sớm được ra đi, vì còn ở lại nơi này là từng phút qua, cổ lại mang vào một vòng khoen khổ ải . Những cảm nghĩ cứ dến với tôi liên tiếp và dồn dập, làm cho tôi không biết phải xếp đặt thế nào để viết . Ôi cớ sao sự vất vả và tủi hổ cứ liên tiếp đến với người tị nạn chúng tôi ? Tại sao người ta không cho chúng tôi một ngày ổn định, để chuẩn bị tư thế bước vào một cuộc sống mới .
Thôi tôi đã hiểu rồi, số phận của người tị nạn là thế .Tôi chờ đợi một chuyến ra đi cuối cùng, tôi sống càng lúc càng thu hẹp lại như những vòng kẽm quanh nhà thờ cũng cứ mãi thu hẹp lại, mắt trơ tráo đứng nhìn những người thân yêu lần lượt ra cổng, giã từ mình . Họ cũng ra đi nhưng chẳng biết đi về đâu . Cũng như tôi sẽ chẳng biết là ở lại bao lâu nữa !
Rồi mai bước chân ra khỏi cổng trại, cách xa vĩnh viễn Cheras để rồi càng xa thêm Việt Nam, tôi tự hỏi mình lại đến bao giờ mới được quay về cố huong để cùng non nước, gia đình, bạn bè nối lại vòng tay lớn .
Ghi vào đây một vài dòng trong nỗi buồn ở Cheras .
Honolulu
4-1979
MG