Hôm nay,  

Lòng Từ Bi Bác Ái Của Đức Huỳnh Giáo Chủ: Tâm sự của một tìn đồ trẻ nhân Lễ Kỷ Niệm Ngày Đức Thầy bị Việt Minh ám hại tại Đốc Vàng Hạ vào tháng tư 1947.

07/04/201800:00:00(Xem: 8616)
PGHH 1 Duc Ba Than Mau
Đức Bà thân mẫu của Đức Huỳnh Giáo Chủ. 

PGHH 2 Huynh Huu Thien
Huỳnh Hữu Thiện, Thư Ký Văn Phòng Ủy Viên đăc biệt của Đức Giáo Chủ.

PGHH 3 Ong Tran Van Soai
Tướng Trần văn Soái (Chi Đội Trưởng Chi Đội 1) cận vệ của Đức Giáo Chủ

PGHH 4 Duc Huynh Giao Chu
Đức Huỳnh Giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo.

Mai Chân Lê Yến Dung
 

Vào đêm 25 tháng Hai âm lịch của 71 năm về trước đã có kẻ lợi dụng lòng trung tín, đức hi sinh và vị quốc quên mình của Đức Huỳnh Giáo Chủ bày ra âm mưu ám hại Ngài.

Những tia nắng chiều xưa ấy, vẫn còn rất yếu ớt khuất sau hàng tre dầy đặc. Trời bắt đầu sẫm tối rất nhanh, chỉ độ hơn 7 giờ thôi mà đã đen như mực. Hai bên bờ rạch nằm giữa cánh đồng hoang vu, trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp lau sậy mọc um tùm, không một thuyền ghe qua lại, khiến cho đêm tối Ba Răng càng thêm âm u rùng rợn...

Thuyền của Đức Huỳnh Giáo Chủ đang chầm chậm rẽ nước từ ngọn Ba Răng, Đốc Vàng Hạ (rạch Láng Tượng) đến chỗ hẹn với Bửu Vinh.

Tùy tùng của Ngài gồm: Đại đội trưởng Đại đội 2, Chi đội 30 Ngô Trung Hưng, Thư ký văn phòng Ủy viên Đặc biệt  Huỳnh Hữu Thiện, 4 cận vệ quân và 3 người chèo thuyền (phu trạo). Tất cả đều len lén nhìn Ngài và thấy được nét trầm tư của vị Giáo Chủ qua ánh đèn dầu đong đưa theo nhịp sóng vỗ. Không ai dám hỏi han gì để chờ đợi lịnh Ngài. Bằng ánh mắt từ bi, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã lướt nhìn tất cả mọi người và bằng giọng êm dịu từ tốn, Ngài hỏi: “ Có ai biết đường trở về căn cứ của mình không?”. Tất cả đồng thanh trả lời “Dạ không biết” chỉ có Ông Phan Văn Tỷ (cận vệ quân) đưa tay lên và thưa:“Bẩm Thầy con biết”. Ngài ôn tồn bảo: “Có gì khó, cứ nhắm hướng sao Cày chạy riết thì tới chớ gì”, Ngài cũng chỉ tay về hướng sao Cày cho tất cả tùy tùng của Ngài, con đường trở về căn cứ quân đội Phật Giáo Hòa Hảo ở Phú Thành và than thở: “Hôm nay là ngày đau khổ nhứt! Ôi! Sao mà đau khổ quá vầy!”.

Thuyền dừng lại điểm hẹn, Bửu Vinh đến tận bờ rạch, mời Đức Huỳnh Giáo Chủ lên văn phòng làm việc của ông ta. Ngài đi trước theo sau là 4 Cận vệ quân, theo sau nữa là Bửu Vinh trong một bộ đồ lụa đen.

Văn phòng của Bửu Vinh đặt tại một ngôi nhà ngói lớn. Bửu Vinh và Ngài ngồi đối diện nhau trên một chiếc tràng kỷ đặt ở phòng bên ngoài. Giữa nhà là bàn thờ, hai bên là 2 miếng màn vải bông che kín cửa  vào buồng trong.

Câu chuyện của vị Giáo Chủ và Bửu Vinh chưa kịp bắt đầu thì nhanh như chớp: 8 tên Việt gian của Bửu Vinh từ ngoài đường nhảy vào, chia cặp, kè 4 cận vệ quân của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Tiếp theo là một ám lịnh và giọng khàn hét thật to: Bắn…

Ba cận vệ quân của Ngài vì không đề phòng hành động đê hèn đánh lén của quân Bửu Vinh, nên đã bị đâm chết. Riêng ông Phan Văn Tỷ lanh trí hơn và võ giỏi nên đã lách mình cho 2 tên quân của Bửu Vinh sẵn trớn đâm vào nhau, cả hai chết tức tưởi trên vũng máu. Anh Tỷ đã dùng súng “Mi-tray-dết” bắn trả lại bọn họ, tẩu thoát trong khi Đức Huỳnh Giáo Chủ rất bình tĩnh đứng dậy thổi tắt ngọn đèn. Văn phòng trở nên tối đen.

Tiếng súng của bọn Bửu Vinh vẫn nổ liên hồi…Ba người chèo thuyền trở về căn cứ Phú Thành thông báo cho các tướng lãnh.

Cũng chính đêm ấy vào khoảng 9 giờ, tại căn cứ quân đội Phật Giáo Hòa Hảo tại Phú Thành, tất cả anh em quân dân vẫn còn thức để trông tin của Ngài, mọi người trong tình trạng căng thẳng, sẵn sàng đem binh đi giải nguy cho Giáo Chủ. Họ quyết kéo quân đi tận diệt Bửu Vinh và bè lũ. Tiếng la hét, khóc ré, gào thét inh ỏi hòa lẫn tiếng tù và ngân dài ghê rợn, trống mõ, làm rung chuyển cả một góc trời.

Muôn vạn ánh đuốc bập bùng sáng rực trong đêm tối…nào thương, đao, tầm vông vạt nhọn, súng trường, súng ngắn được mang ra kín cả đường đi, bắt đầu cho việc đi tiếp cứu Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Bỗng tiếng vó ngựa dồn dập từ xa tiến gần và dừng lại. Người kỵ mã tuột nhanh khỏi lưng ngựa, hét rất to: “Ông Trần Văn Soái, Ông Nguyễn Giác Ngộ đâu? đến nhận mật lịnh của Đức Thầy”. Ông Nguyễn Giác Ngộ, Chi đội trưởng Chi đội 30, Ông Luật Sư Mai Văn Dậu Đổng lý Văn phòng của Đức Huỳnh Giáo Chủ, cùng một số cán bộ cao cấp khác và tất cả quân dân, mọi người đang nín thở vây quanh người kỵ mã tiếp nhận lệnh của Tôn Sư:

“Ông Trần văn Soái và Ông Nguyễn Giác Ngộ,

Tôi vừa hội hiệp với Bửu Vinh bỗng có sự biến cố xảy ra, tôi và ông Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra, trong mấy anh em phòng vệ không biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay là mưu sát thì các ông đừngtinvà đừng náo động.                                                    

Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hãy đóng quân tại chổ.

Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi sẽ về sau.

Phải triệt để tuân lịnh.

Ngày 16-4-47, 9 giờ 15 đêm

Ký tên: S.”

Đây là bút tích và lời dặn dò của Tôn Sư, nên tất cả tín đồ của Ngài không có một ai manh động, chỉ biết nghẹn ngào để tuân thủ lịnh của Tôn Sư và cũng để bình tâm lo tu niệm, để cố xoa dịu nỗi căm hận của một đêm tối hãi hùng tại Ba Răng, Đốc Vàng.

Trong đêm tối lịch sử ấy, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã điềm nhiên thổi tắt ngọn đèn và ra đi biệt dạng. Và cũng chính đêm ấy Bửu Vinh (kẻ đê hèn đã dụng kế ám hại Ngài) phải tức tối, ngơ ngác, tái mặt bởi cuộc bủa vây thất bại, đành lặng nhìn Đức Huỳnh Giáo Chủ khuất dạng trong bóng đen dầy đặc, một màn đêm tăm tối của vũ trụ…Đêm ấy trời sầu lên cơn bão tố, gầm thét, gió rít từng cơn như ai oán để tiễn bước Đấng Từ bi…Và cũng kể từ đêm đó cho đến bây giờ không ai biết Ngài đã đi đâu?


Thánh Địa Hòa Hảo từ thuở ấy, trời mây giăng tối, buồn lên mắt ướt của bao nhiêu triệu tín đồ, vì tất cả đều biết rằng: Mình đã thực sự xa rồi bóng dáng của Đấng Tôn Sư, để chấp nhận những nghiệt ngã thương đau, đành vâng lệnh Đấng Tôn Sư theo chí nguyện to tát của Ngài: “Đổi lấy duyên nghiệp trả vay cho chúng sanh trong tiền kiếp qua đi” và Ngài cũng đã thấu triệt huyền cơ: “Ngài sẽ xa vắng tín đồ của Ngài một thời gian” nên trong quyển Giác Mê Tâm Kệ, Ngài đã từng thố lộ:

 
Thấy Thiên-cơ khó nỗi yên ngồi,
Thương lê-thứ tới hồi khổ-não.
Thầy lạc tớ không ai chỉ bảo,
Như vịt con dìu-dắt nhờ gà.

 
 Chính vì thế mà toàn thể tín đồ của Ngài đã phải hết sức bình tĩnh làm tròn bổn phận của người tín đồ chơn chánh, bình tĩnh để âm thầm thực thi lời giáo huấn của Ngài, bình tĩnh trau tâm trỉa tánh làm tròn bổn phận của kẻ “Học Phật Tu Nhân”, giữ trọn Tứ Ân, luyện rèn Bát Chánh Đạo, thực thi Pháp Môn Niệm Phật mà Đức Thầy đã dày công giáo hóa. Cho nên chúng ta phải luôn sáng suốt, quyết lấy Đạo nghĩa để thắng kẻ hung tàn, lấy Đức nhân để thắng cường bạo, đúng như luật thừa trừ “Nạn tai cũng hữu ích phần nào”. Triết lý trên đã gần gũi với câu: “Ta chịu khổ khổ cho bá tánh” (Sa Đéc) hoặc “Nguyện uống cho đời chén thuốc cay” (Vì Sanh Chúng) của Đức Tôn Sư đã làm thêm niềm tin vững chắc cho sự trở về của Ngài, một ngày hoan lạc vô biên của hàng triệu Tín đồ và sự ngạc nhiên thán phục lớn lao của của cả quần sanh nhân loại, để hoan hỉ mà nhận rằng mình đã đi đúng đường tu:

“Nhờ công tu luyện đúng đường quá hay”

 (Sấm Giảng, Q.1 - Khuyên Người Đời Tu Niệm).

Nhờ sự soi đường dẫn lối của Đức Huỳnh Giáo Chủ mà toàn thể khối tín đồ to lớn của Ngài đã cùng nhau thương yêu lẫn nhau như con một cha, cùng chung sức đua nhau vào những công tác hữu ích cho Xã hội nhân quần, cùng xiết chặt vòng tay lớn để cậy nương vào “Đuốc Từ Bi” của Ngài đang soi sáng cả vũ trụ và vĩ nghiệp của Đấng Tôn Sư mà dẹp cả lòng thù hận, cùng tương thân tương ái trong tinh thần Hòa Hảo, để cùng nhau thực hiện cái mục đích siêu việt của Tôn giáo mình, theo ý nguyện của Ngài là “Mang lại đời sống ấm no an lành trong thịnh vượng cho nhân loại, tiến tu đến giải thoát”.

Chính vì vậy mà sau biến cố 25 tháng 2 nhuần, năm Đinh Hợi (1947), toàn thể Tín đồ của Ngài phải nhận chịu nhiều tang thương, chịu đựng không biết bao nhiêu cuộc đương đầu đắng cay: Nào là thực dân Pháp đàn áp, cùng sự áp bức vô lương của nhóm đảng phái vô minh, xằng bậy và sự kềm kẹp của chánh quyền trước kia cũng như trong hiện tại… Họ đã tạo mọi hình thức nầy, những tổ chức nọ, vu khống mọi hành động để có dịp giam cầm và giết chết những đồng đạo Phật Giáo Hòa Hảo một cách tàn nhẫn, vô lương, nhằm mục đích ngăn chận sự phát triển của Tôn Giáo Phật Giáo Hòa Hảo. Chính vì biết rõ những âm mưu của họ, nên chúng ta đã phải và hết sức bình tĩnh, kiên trì để tự tồn. Chúng ta phải vì lòng từ ái, thương yêu nhanu trong tinh thần hòa hảo mà Đức Thầy đã truyền dạy cho chúng ta, cho toàn thể chúng sanh nhân loại, để thực hành Giáo lý của Tôn Giáo Phật Giáo Hòa Hảo, để phát huy vĩ nghiệp cao dầy của Ngài đã để lại cho chúng ta trong cõi đời Hạ Nguơn mạt Pháp nầy.

Đã 71 mùa Xuân qua đi, là 71 mùa Xuân kỷ niệm trong sầu đau, trong thương nhớ sâu thẩm của tất cả mọi tín đồ. Trong tâm hồn họ vẫn ghi mãi hình ảnh của một Vị Giáo Chủ siêu xuất trần gian trong dáng dấp hao gầy, khôi ngô tuấn tú của một thanh sắc trẻ nhưng đã vì chúng sanh mà hứng chịu mọi tai nàn.

Trong nỗi buồn da diết nhớ thương Đức Giáo Chủ, bỗng đâu đây trong sương trong gió, giọng ngâm Sấm Giảng thâm trầm buồn của một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo từ xa văng vẳng lại:

        
Đêm khuya vắng lặng như tờ,
Vài hàng nhủ hết chớ ngơ-ngẩn lòng.
Gắng tình đừng lắm ngóng trông.
Hung-tinh sao ấy trời Đông lờ-mờ.
Hềm vì mắc lá thiên-thơ,
Đôi điều ghi chép cõi bờ chưa xong.
Thôi thì lòng dặn lấy lòng,
Gẫm đây đến cuộc mây rồng chẳng xa.
Đêm khuya lác-đác sương sa,
 Phòng khuya lạnh-lẽo có ta với phòng.
Gật-gù suy cuộc hưng vong,
Quyết xoay máy tạo gánh gồng chưa yên.
Trí thần nhớ đến tiếng quyên,
Gọi hồn cố-quốc sầu riêng một mình.
Trầm-ngâm vẻ mặt làm thinh,
Tựa mình bên gối giấc quỳnh đã say.
Mơ tiên hồn muốn vụt bay…
 

Đây chính là nỗi lòng của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong bài “Tự Thán” mà Ngài sáng tác trong những ngày bị người Pháp lưu giữ tại Nhà thương Chợ-Quán, vào tháng Chạp năm Canh-Thìn (1940). Có lẽ một đồng đạo nào đó trong xóm có cùng tâm sự với tôi trong đêm 25 nầy, cũng một lòng  thương Đạo nhớ Thầy nên mới ngâm lên những câu thơ của Đức Thầy. Thật là một đêm 25 đầy cảm xúc mà hơn mười triệu tín đồ của Ngài, dù tha hương ở khắp mọi nơi trên thế giới cùng đồng cảm, cùng một nhịp tim thương nhớ đến ĐứcTôn Sư, đang xa vắng.

Tôi cúi mặt nghe tê tái cả buồng tim, nghèn nghẹn nuốt những giọt mặn đang tuôn chảy từ mắt của tôi mà hình như của cả hàng triệu tín đồ PGHH, đang âm thầm nhớ về đêm từ ly kỷ niệm, buồn bã nhất...Ai cũng một lòng thủy chung hướng vọng về Đức Tôn Sư, để cầu mong một ngày Ngài trở gót. Cho nên trên nẽo Đạo, đường đời dù gặp nhiều chông gay đau khổ, tất cả môn nhân đệ tử đều không bao giờ quên lời giáo huấn của Ngài:

Chánh tin tấn dầu thành hay bại,
Cứ một đường tín ngưỡng của mình.
Dầu cho ai phá rối đức tin,
Ta cũng cứ một đường đi tới.
 

(Giác Mê Tâm Kệ)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.