Hôm nay,  

Truyện Nôm Nữ Tú Tài 傳喃女秀才

24/12/201700:01:00(Xem: 6500)

Truyện Nôm Nữ Tú Tài

傳喃女秀才

 
Nguyễn Văn Sâm
giới thiệu và phiên âm.

  

1a[1]         Thong dong nhân thuở thanh nhàn,

               Thấy trong Kim Cổ Kỳ Quan[2], sách ngoài,

               Họ Văn có nữ Tú Tài,

               Con quan Tham Tướng tuổi vời xuân xanh[3].

               Vả thêm quốc sắc khuynh thành,

               Đã hay nghề ngựa lại rành nghề cung.

               Chân thiếu nữ, giả anh hùng[4],

               Trượng phu mấy kẻ địch cùng kém xa[5].

               Đặt tên là ả Phỉ Nga[6],

               Huyên đường sớm vắng, còn nhà nghiêm quân[7].

               Tống triều đại chấn tư văn,

               Nho phong thì thắm, vũ thần thì khinh[8].

               Phỉ Nga có chí cậy mình,

               Quyết lòng nấu sử sôi kinh theo thì[9].

               Quần chân, áo chít, cài khuy.

               Trá hình làm đấng nam nhi học hành[10].

Cải danh hiệu ốt[11] Tuấn Khanh,

Lạy cha thôi mới khởi trình tòng sư[12].

1b           Đêm ngày luyện tập thi, thư,

               Tư phong chỉnh chiện, ngôn từ thong dong[13].

Bạn cùng Ngụy Soạn, Tư Phong.

Đua nhau trận bút, vẫy vùng kình côn[14].

Một phen cá vượt vũ môn[15],

Ba người đều chiếm khôi nguyên Tú Tài[16].

Cùng nhau kinh sử dùi mài,

Mặc ai kết chỉ, mặc ai gieo cầu[17].

Có khi vắng vẻ thư lâu[18].

Tử Trung nói cợt trình hầu[19] Tuấn Khanh.

Rằng:  ‘Hai ta tuổi xuân xanh,

Đồng niên đồng cán khoa danh cũng đồng[20].

Chước chi biến dịch thư hùng[21],

Lấy nhau làm vợ làm chồng đẹp đôi.’

Soạn Chi thấy nói mỉn[22] cười,

Rằng âm dương vốn khí trời bẩm sanh.

Ví mà biến tướng cải hình.

Lấy nhau đây cũng thuận tình cưới cho[23].

Tuấn Khanh có ý thẹn thùa,

E khi ngồi đứng lõa lồ hình dong[24].

2a.         Thời ta khôn nẻo đề phòng[25],

Giả rằng mượn tiếng tướng công ra về[26].

Nghĩ mình là phận nữ nhi,

Sớm khuya bè bạn gần cùng lửa hương.

Cùng nhau một chiếu một giường[27],

Tử Trung, Nguỵ Soạn[28] hai chàng xưa nay.

Sợ khi có kẻ biết hay.

Thời ta cao chạy xa bay mới hào[29].

Dẫu mà khép nép ra vào.

Nương long sai dậy, má đào hây hây[30].

Dễ mà gìn giữ đêm ngày.

Lửa gần rơm dễ biến tày quyện cao[31].

Trót đà thời nữa làm sao,

Vả xem Đỗ tử[32] ước ao trái tình.

Tuổi cùng mười tám xuân xanh,

Soạn Chi nhị thập hai anh quốc tài.

Âu ta[33] quyết lấy một người,

Kết làm phu phụ sánh đôi phỉ nguyền.

Gác đằng nhờ gió đưa duyên,

Song hai gả ấy sắc hiền tày nhau[34].

2b           Nào đâu đã hẵn hơn đâu,

Dễ mà kết chỉ gieo cầu cho xong[35].

Một tay nâng mấy quả bồng[36].

Thiền quyên thời một, anh hùng thời hai.

Chẳng qua duyên phận bởi trời,

Mượn tay tạo hóa thay lời nhân gian[37].

Một mình nghĩ ngợi lo toan,

Bỗng đâu chim thước kêu vang ngoài lầu.

Càng thêm như giục cơn sầu,

Ngẩn ngơ mặt ngọc rầu rầu vẽ hoa[38].

Nàng bèn ngữa mặt trông ra,

Trên cây thước đổ xa xa vừa tầm[39].

Lấy tên miệng nhủ tay cầm,

Đề thơ tám chữ[40] lâm râm khấn nguyền.

Nguyện rằng phát tất ứng huyền[41],

Bắn con chim thước phải tên rõ ràng.

Chim bay rơi xuống học tràng,

Tử Trung chợt thấy  vội vàng ra xem.

Vô tình ai biết sự gì,

Trông sau[42] bỗng thấy tùy nhi gọi về.

3a           Cầm tay trao bảo Soạn Chi[43],

Rằng này thiếu nữ kỳ tài bắn dương[44].

Tử Trung từ tạ học trường,

Theo hề về tỉnh lưỡng đường xuân huyên[45].

Soạn Chi thấy chữ đề tên,

Rằng tài thời ắt quả nhiên có tài.

Song hiềm một nỗi sự nhân,

My nga chưa tỏ,  gái trai dường nào[46].

Một mình nghĩ ngợi thấp cao,

Tuấn Khanh trót đã trở vào cải trang.

Lại làm nam tử đường đường[47],

Chăm chăm bước tới học trường mà lo.

Soạn Chi thấy mặt ngẩn ngơ[48].

Cầm tên mà ngẩm câu thi chữ đề.

Tuấn Khanh mới bảo rằng thời,

Tên ai bắt đặng chữ gì mà coi.

Soạn Chi rằng lúc mới rồi,

Thấy tên bắn tước có đôi thơ đề.

Đã nên rằng của dị kỳ.

Phỉ Nga chữ ký thiệt thì nữ nhân.

3b          Song còn nghĩ ngợi phân vân,

Thiền quyên chưa dễ mấy thân lành nghề[49].

Tuấn Khanh rằng dám dấu chi,

Phỉ Nga, tên ấy thiệt thì chị tôi,

Phải khi dạo cảnh tìm mai[50],

Bắn con chim thước bay rơi bên nầy,

Sự tình trình đấy ai hay,

Thiệt tay thiếu nữ, chẳng tay anh hùng[51].

Soạn Chi rằng mới lạ lùng,

Nữ nhân tài kể đầu lồng thủ khoa[52].

Hỏi thăm chị cả Phi Nga,

‘Xuân thu đặng mấy, tuổi hoa dường nào[53].

Đã tầm nơi sánh anh hào,

Hay còn cung cấm lầu cao đợi thì[54]?’

Tuấn Khanh rằng: ‘Hỏi làm chi,

Chị tôi thời cũng như tôi khác nào.

Ngọc lành còn đợi giá cao.

Nhân duyên chưa định nơi nào kết nghi[55].

Phép nhà chẳng dám phi vi[56],

Nhắn làm chi hỏi làm chi, ai chường[57].

4a           Rằng anh muốn kết châu trần,

               Nghĩa thông gia ấy xây vần cho nên[58],

               Hạnh may hương lửa hữu duyên[59],

               Cũng vì mấy chữ tiền duyên thư đề[60].

               Lựa lời mà nói cho êm[61],

               May mà chị phải nghe em, chớ thì[62]

               Sau mà vẹn chữ vu qui,

Thời anh phải lấy vật gì đưa sang.’

Soạn Chi mở tráp vội vàng,

Đưa ngay một chiếc ngọc trang báu kỳ[63].

Lại đề tiểu luật một thi[64],

Rằng này vi vật[65] làm ghi lấy lòng.

Phiền anh gởi đến tướng công,

Trình qua chị ả[66] trướng trung xem tường,

Nay là lấy tấm lòng thường,

Xin thương thấy của thời thương đến người[67].

Thi rằng:

Cung quế hương đưa trải mấy thu,

Trộm nghe danh giá động lòng Nhu[68].

4b                          Tòa ngọc ra tay đem đàn thước,

Sông Ngân nhờ thuở bắt cầu Ô[69].

Tuấn Khanh nhìn của chịu lời,

Tạ từ thôi mới tái hồi bổn gia[70].

Mặt hoa luống thẹn lòng hoa,

Than rằng sự bởi trăng già trêu ngươi.

Lòng ta rắp lấy một người,

Bói tên thời lại lạc loài khác tên[71].

Nàng bèn than thở sự duyên,

Rằng lòng chẳng rắp mà nên  lạ lùng[72].

Tiếc thay chàng Đỗ Tử Trung,

Đồng niên mà lại nghi dung đức tài.

Cùng nhau muốn kết duyên hài,

Song le tên mắc ở nơi tay người[73].

Soạn Chi  chắc đã hẳn mười[74],

Sự mình chẳng lộ cho ai biết tình.

Đêm ngày tư tưởng một mình,

Tuấn Khanh lại đến tập tành nghề văn.

Soạn Chi sẽ hỏi vân vân,

Tuấn Khanh rằng sự mười phân đã đành[75].

5a           Ngọc  Trang em đã đệ trình.

Chị rằng Hội thí danh thành sẽ  hay[76].

Ngọc trang chị chịu cầm tay,

Vâng lời em mới sang tay tức thời.

Xin anh chớ lệ[77] điều chi.

Vinh qui về với vu qui càng mầu.

Soạn Chi rằng chẳng bao lâu[78].

Nguyện xin như ý sở cầu cho cam.

Đừng ai ra dạ Bắc Nam.

Nỡ chê lươn vắn mà ham chạch dài[79].

Tuấn Khanh thấy nói mỉn cười,

Trình rằng hổ có đôi nơi cao dầy.[80]

Có tiên thời hậu mới hay,

Đã trồng cây đức ắt dầy đền nhân[81].

Mấy lời gắn bó vân vân,

Đành hay Thiên Địa quỷ thần chứng tri.

Ta còn lộ chuyện song Nga[82],

Bỗng nghe ngự chiếu khai khoa cầu hiền. 殀 次

Soạn Chi chợt mới nghe tin,

Rủ hai anh bạn cùng lên kinh kỳ.

5b           Tuấn Khanh có ý trở về,

               Trình quan Tham Tướng xin đi kịp ngày[83].

               Cha rằng con gái nữ hài,

Thi Hương đã đỗ Tú Tài làm hay[84].

Lại đòi Hội thí chi rày,

Phòng khi sự giác[85] nữa mày làm sao?

Âu là giả chước làm cao,

Anh em ai biết sự nào mà nghi.

Thốt thôi[86] Đỗ Tử, Soạn Chi,

Hai người đều đến rủ đi vào trường.

Tuấn Khanh vâng cứ nghiêm đường[87],

Giả làm bị bệnh bất thường từ thi[88].

Hai người khi ấy ra đi,

Tới nơi đầu quyển [89]vào thi lấy tài.

Công danh ai kẻ nhường ai,

Hai người đều đỗ tam khôi bảng vàng.

Tiếc thay tài Tuấn Khanh chàng,

Chí trai thời cũng vẻ vang như người.

Tử Chi chiếm được khoa khôi,

Ninh ninh liền nhớ đến lời định thân.

6a           Về nhà Tham Tướng họ Văn,

Nào ngờ thời vận gian truân quải ngày.

Phải thằng Binh Đạo sất loài,

Cùng Văn Tham Tướng bất hài[90] đã lâu,

Nó làm một bản vọng tâu[91].

Vua vời Tham Tướng vào chầu giam tra[92].

Nhưng cho có một Tú Tài,

Rằng thời công tử là người văn nhơn,

Tuấn Khanh thời cũng theo chơn,

Tìm vào trong trướng ân cần dặn cha.

Mấy lời sau trước thưa qua,

Mưa rào lệ ngọc, nước sa nên vừng[93].

Rằng xưa có gái Đề Oanh.

Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ hài.

Tôi nay cũng phận nữ hài,

Xin soi gương trước kịp nơi đạo hằng.

Nói thôi mở túi lấy vàng,

Chia cho kẻ giữ ngục đàng làm ân.

Rằng thời quan pháp vô thân,

Song le cũng lấy chữ nhân làm đầu.

6b           Khoan cho người giải tâm sầu,

Đội ơn lượng cả các hầu ngục quan.

Ngục trường mấy kẻ đều thương,

Vâng lời liền để lão quan ra ngoài.

Tướng công sẽ bảo Tú Tài.

Là rằng con gái nữ hài đào thơ.

Tiến kinh vạn lý trình đồ,

Phòng khi ấm lạnh lộ đồ ai theo.

Nàng rằng ngựa cỡi cung đeo,

Rừng hoang nội quạnh[94], hiễm nguy ngại gì.

Miễn là giải đặng oan khiên,

Một đoàn phụ tử thiên thu an lành[95].

Lạy cha con kíp khởi trình,

Về nhà khi ấy một mình lo toan.

Gọi Văn Long tới thở than,

Rằng bây giờ lúc hiễm nàn gian nguy.

Quan sơn ngàn dặm quản chi,

Song hiềm thiếu kẻ nữ nhi theo hầu.

Ta là thân gái bọt bèo,

Vì cha nên quyết phải liều mình đi.

7a           Phiền ngươi kiếm lấy tùy nhi,

Trá hình nam tử mà đi theo cùng.

Long rằng xin cả vợ chồng,

Quải bầu, dắt ngựa mang cung theo hầu.

Vợ chồng Long mới bảo nhau,

Rằng trong tình nặng ơn sâu[96] chưa đền.

               Bây giờ người phải oan khiên,

               Không nhưng người sá ngoan phiền[97] đến ai.

               Con người quốc sắc nữ tài,

               Còn liều chẳng ngại đường dài dặm xa.

               Huống chi thân kẻ nhưng ta.

               Mình đừng e lệ đường xa nẻo gần[98].

               Miễn lòng ta ở có nhân,

               Ắt là trời đất đền ơn sau nầy.

               Vợ chàng Long cũng ngoan thay,

               Mặc đồ nam tử ra ngay tức thì[99].

               Đổi thay quần áo nữ nhi,.

               Nghe lời chồng dạy thẳng ngay vào nhà.

               Ba người mưa nắng dãi dầu.

               Một cung, một ngựa, một bầu lân la.

7b           Chẳng nề muôn dặm đường xa,

               Chơn đi miệng niệm Di Đà hộ thân.

               Khấn rằng Thái Thượng Lão Quân,

               Cỡi rồng hóa phép phong vân chớ chầy.

               Kìa trời cao, nọ đất dầy.

               Xét soi kíp giải oan nầy cho xong.

               Bèn làm văn sớ một phong,

               Khấn cầu thiên địa thổ công chư thần.

Sớ rằng:

                              Thành Đô phủ, Cẩm Trúc huyện,

Tín nữ văn thị, tên là Phỉ Nga,

Cầu khẩn cho cha, tên là Văn Trúc,

Phải thằng quái bạc,  tích dĩ  tiềm thù,

Cố ý mang vu, phụ thân bị tù,

Thiên địa giáng phước, kíp giải oan khiên.

Cha đặng bình yên, lại về tướng phủ,

Trúc tiễn ước cũ, cho đặng duyên hài,

Khẩn bái đất trời, thần linh chư vị,

Sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm,

8a                          Chứng thử thốn thầm[100], cẩn phong thượng sớ.

Cẩn phong văn sớ vân vân,

Ngày đi tối lại nghỉ chơn khẩn cầu.

Mưa chan hòa nắng dãi dầu,

Thành đô phủ ấy đã hầu tới nơi[101],

Lầu Tần quán Sở thảnh thơi,

Tạm vào trú ngụ nghỉ ngơi nhà hàng[102].

Nào ngờ cách bức liễu tường,

Trông sang thấy có một nàng tiểu thơ[103].

Vẽ say mặt mũi nhẫn nhơ,

Long lanh mắt phụng thẩn thờ mày nga,

Giở mành cất mặt trông ra,

Thấy chàng liền cất bước hoa đứng rình.

Người quốc sắc vẽ khuynh thành,

Bên tường ghé mắt dòm hàng phong tư,

Gẫm rằng thiệt đấng thi thư,

Dung nghi chỉnh chiện[104], ngôn từ khoan thai.

Hẵn là danh sĩ cao tài,

Đi đâu đồ đệ lạc loài đến đây?

8b           Hay là ông nguyệt xe dây.

               Rủi dun[105]chàng đến chốn nầy cùng ta.

               Mặt hoa ẩn bóng tường hoa,

               Ngẫu riêng thử ý chàng ta dường nào[106].

               Càng nhìn càng nổi trận rào,

Nương long thốn thức, áo bào mưa chan[107].

Biết ai mà đặng thở than,

Chước chi đây đấy giao hoan một phòng[108].

Thiền quyên đã rõ anh hùng,

Sao anh hùng chửa rõ lòng thiền quyên[109].

Ruột tằm gan vượn[110] nào yên,

Bồi hồi chưa định kinh quyền[111] làm sao!

Tuấn Khanh lập trí làm cao[112].

Giục hề lấy rượu đưa vào một phong[113].

Chàng bèn ngồi nghỉ thong dong,

Tạm bày tiệc ngọc[114] chén xuân la đà.

Bỗng đâu xảy thấy mụ già,

Tay bưng bát ngọc, bàn ngà, cam lê,   今古奇觀

Trình rằng lấy tấm lòng quê,

Tiểu thư tôi ở gần kề lân gia[115].

9a           Vật tuy mọn chút[116] là thường,

               Song le nghĩa trọng ngàn vàng nặng thay.

               Tuấn Khanh đương lúc giở say.

               Rằng:  ‘Lòng trọng khách, khách rày đội ơn.

               Từ ru? Lại bảo rằng hờn.

               Lấy ru? Chưa rõ căn nguơn dường nào[117].

               Đã hay vay mận trả đào,

               Song ơn nầy chẳng biết bao giờ đền[118]!

               Vả bấy nay chửa từng quen,

               Nào ai biết họ tường tên bao giờ.’

               Mụ rằng nàng Cảnh tiểu thơ,

Con quan Tham Tướng khi xưa, kén chồng.

               Ở cùng ông ngoại, tướng công,

               Thấy chàng trượng mạo[119] nghi dung khác thường.

               Vả thêm muôn dặm đường trường,

               Qua đây là chốn phố hàng hôi tanh[120].

               Sẵn sàng có của ngon lành,

               Cho nên nàng mới sai hành tôi đưa[121].

               Gọi là trộm tấm lòng thơ,

               Họa nên kim cải duyên ưa[122] chăng người.

9b           Tuấn Khanh chịu lấy, mỉn cười,

               Bèn ngâm đoạn luật thử chơi xem lòng.

Thơ rằng:

                              Ơn lòng hậu đãi khách xa đàng,

                              Quí vật nầy xem trọng dường vàng,

                              Hiềm chút lạ lùng lòng chưa rõ,

                              Lấy chi làm của trả ơn nàng.

               Bút hoa tay thảo cẩn phong[123],

               Gởi lời mụ lão tạ lòng ân nhân.

               Lãnh lời mụ lão[124] ra sân,

               Gọi hề sẽ hỏi vân vân[125] mọi lời.

               Văn Long mách bảo rạch ròi.      

               Rằng chàng công tử Tú Tài họ Văn,

               Chưa đẹp duyên chưa nạp thân,

               Nhân sao mụ hỏi ân cần làm chi?

               Nghe thôi mụ lão ra về[126],

               Mấy lời bộc bạch sự đi cho nàng,

               Nàng từ xem thấy thơ chàng,

               Vả say trượng mạo lại tường họ tên

10a        Bỗng đâu như dắt cơn phiền[127].

               Bèn đề một bức tiên vân như vần.

Thơ rằng:

                              Trộm nghe quân tử trẩy qua[128] đàng.

                              Thấy mặt nhìn xem trọng dường vàng.

                              Chứng có tầm lòng đưa vật mọn,

                              Xin thương đừng ghét: Giả ân nàng.

               Giục già đem tới lang quân[129],

               Lựa lời[130] thưa thốt ân cần cho thông.

               Nàng thời vào gởi[131] phú ông,

Rằng tôi thấy gả con dòng họ Văn,

Thiệt là tài tử văn nhân,

Dung nghi diện mạo thập phân chỉnh tề,

Trú bên tiểu xá tạm thời,

Lòng tôi cũng muốn kết hài hợp duyên.

Đã tra rõ họ tường tên,

Dám trình ông dạy có nên chăng là?

Phú ông tính khí thiệt thà[132],

Rằng lời cháu nguyện ông đà nhớ đây.

10b        Bây giờ phận đẹp duyên nầy,

               Gọi hề lấy áo ông nay ra mừng,

               Tuấn Khanh còn tiệc tưng bừng,

               Đã nghe tin nhạn[133] bay chừng tới nơi.

               Mụ già rén rén[134] trình lời,

               Rằng thơ nầy của chủ tôi trong lầu.

               Dạy tôi đem đến tới hầu,

               Nguyện xin quân tử hảo cầu kết duơn.

               Chàng liền mở bức tiên vân,

               Đọc thơ mình lại ngợi khen nữ tài,

               Tiếc thay là cũng một loài,

Trượng phu mà kết duyên hài đẹp đôi[135].

               Lặng ru[136]? sợ bảo mắc lời.

               Chê thời lại sợ người cười hẹp dong.

               Phải tìm quỷ kế[137] mới xong,

               Rằng ta đã đội ơn lòng xiết bao.

               May chân bước đến vườn đào,

               Giáng Hương, Từ Thức dễ nào gặp tiên.

               Lửa gần hương muốn bén duyên,

11a        Anh hùng nỡ phụ thiền quyên hỡi chàng[138]

               Song hiềm đã có tao khang,

               Chữ rằng bất khả hạ đàng[139] biết sao!

               Mụ rằng thục nữ anh hào,

               Làm chi e lệ thấp cao hỡi chàng.

               Nguyền xưa mụ đã hỏi chường[140],

               Mới đem duyên kết cùng chàng, không đâu[141]!

Nỡ nào ruồng rẫy tôi nhau!

Đã nơi khẩn nguyện, chỗ cầu lại vong!

Mụ còn năn nỉ[142] chưa xong,

Trông ra đã thấy phú ông tới gần.

Tuổi vòng ngoại thất thập tuần[143].

Phơ phơ tóc bạc, vân vân râu rồng.

Đến chào công tử tướng công,

               Mừng rằng hạnh ngộ[144] tương phùng đến đây.

               Già nay có cháu thơ ngây,

               Con quan Cảnh tướng bấy nay ở cùng[145].

               Mồ côi vả dự con dòng,

               Theo đòi kim chỉ[146] nữ công kịp người.

Chưa nơi phận đẹp duyên hài,

Mặc lòng con trẻ chọn người hợp duyên[147].

11b        Thấy chàng công tử sĩ hiền,

Dám xin hạ cố tùng quyền nên chăng.

Tuấn Khanh bèn mới thưa rằng,

‘Đội ơn quốc lão xem bằng Thái sơn.

Mến thương đến kẻ sĩ hàn[148],

Chẳng so hơn thiệt, chẳng bàn trọng khinh.

Song nàng dòng dõi tướng khanh,

Đã khuynh quốc sắc lại danh nữ tài.

Tôi là vũ tướng nhi hài,

Hổ thân nam tử dùi mài cung đao[149].

Dám đâu đọ khách lầu cao,

Bao giờ đai bạc áo bào[150] sẽ hay.

Vả còn nghiêm phụ khi nay,

Mắc oan nên bận dạ nầy giải oan.’

Lão quan nghe nói nguồn cơn,

Gẫm rằng thiệt kẻ sĩ hàn hiếu trung.

Khuyên[151] người người chẳng nghe cùng,

Về không[152] lại sợ mất lòng cháu ta.

Âu là già dụng chước già,

Tìm lời phương tiện ắt là phải nghe.

12a        Nhủ rằng ngọc diệp kim chi,

Lứa đôi xem cũng phải thì đẹp đôi[153].

Nghe già chàng hãy chịu lời,

Bẩm qua nghiêm phụ để người đặng hay.

Việc rồi chàng sẽ về đây.

Lễ nghinh hôn ấy già nay thân giùm[154].

Thấy lời lão tướng cạn cùng[155],

Chàng liền nhớ đến Tử Trung bạn hiền.

Còn không chưa định nhơn duyên,

Mới toan một chước tạm quyền giả danh.

Rằng ơn lão tướng hậu tình,

Đoái thương đến khách sĩ hành tha hương.

Dạy lời phương tiện hai đường,

Xin vâng kẻo bận lòng vàng nặng thương[156].

Trong mình lấy gói ngọc trang[157].

Tay dâng rằng có vật thường làm tin.

Gọi rằng tiểu lễ tùng quyền,

Cho người đành dạ, tôi xin khởi trình.

Nguyện cho vạn sự giai thành[158],

Thời tôi sẽ đến vấn danh lễ thường.

12b        Phú ông lãnh lấy ngọc trang,

Đưa về giao phó cho nàng tiểu thơ.

Nàng vâng lãnh lấy bấy giờ,

Như khơi bể ái như xua cơn sầu[159].

Lão ông bèn trở lại lầu,

Truyền làm tiệc rượu mừng hầu tân lang.

Gọi là lễ tiễn lên đàng,

Phó kinh thành sự thời chàng hồi qui.

Tiệc rồi từ tạ ra đi.

Gác yên cật ngựa[160], hai hề theo sau.

Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.

Thẳng dong dặm liễu, vó câu bước ngàn.

Gập ghềnh cách trở quan san.

Kìa non Thứu Lĩnh, nọ ngàn Dương Quan[161].

Ngán thay nỗi Cảnh thư nương[162],

Từ ngày chịu lễ ngọc trang của chàng.

Ruột tằm đoài đoạn tơ vương,

Tóc mây biếng chải, cơm thường thờ ơ[163].

Mặt hoa quái dạng[164] ngẩn ngơ,

Khúc cầm biếng khải, lá thơ ngại đề[165].

13a        Mong cho chàng kíp trở về,

Tạ ơn ông nguyệt, vu qui phỉ nguyền.

Lạy trời kíp giải oan khiên,

Cho quan Tham Tướng bình yên về nhà.

Cho chàng công tử dường hoa[166],

Mau chưn trở lại giao hòa cùng tôi.

Lâm râm miệng & mấy lời[167],

Tuấn Khanh trót đã tới nơi kinh kỳ.

Tìm anh Đỗ Tử, Soạn Chi,

Mừng tân quan vả đến thì giải oan.

Tử Trung chợt thấy ngọc nhan[168],

Chưn giày trở gót, khoan thai miệng chào.

Rằng xin[169] quí hữu tạm vào.

Tha hương ngộ cố[170], xiết bao là mừng.

Hai người mừng rỡ tưng bừng,

Kẻ vui cố hữu[171], người mừng tân quan.

Cùng nhau đồng tiệc đồng bàn,

Tuấn Khanh hỏi Ngụy tôn nhan đâu rày[172].

Tử Trung bèn mới thưa bày,

Rằng anh Ngụy Soạn những ngày thấy tên.

13b        Bảng vàng xem đặng khôi nguyên,

Thẳng dong xe ngựa về miền bên anh.

Tuấn Khanh gẫm biết chơn tình,

Làm thinh kẻo lộ sự mình hở hang[173].

Rằng tôi muôn dặm đường tràng,

Lộ đồ chẳng kịp Ngụy chàng vinh quy.

May còn quý hữu đây thì,

Xin em thương nặng lòng vì phụ thân.

Tuấn Khanh kể hết vân vân,

Tử Trung nghe hãn ân cần duyên do,

Nói rằng phải bước trả thù,

Cho tôn bá phải oan tù gian truân[174].

Anh thì tua lấy một văn[175].

Cho tôi tâu đến thánh quân cửu trùng.

Phiên triều vào gởi thong dong,

Xét soi cho kẻo oan lòng kẻ ngay.

Tôi xin cứu khỏi nạn nầy,

Gọi là kẻ mỏng người dầy đở nhau[176].

Tuấn Khanh bèn giải cơn sầu[177],

Thảo thư một bức đệ hầu quan nhân[178].

14a        Tử Trung thấy hết vân vân,

Sắm sanh áo mão, dời chưn tức thì.

Tuấn Khanh bèn bảo tùy nhi[179],

Đi chơi, hỏi đến kinh kỳ mấy khi[180]!

Mảng xem quán nọ lầu kia,

Tử Trung đã kịp gót đi đến nhà[181].

Nhác xem[182] bên góc chiếu hoa,

Tiểu hàm khóa ngỏ, người hòa vắng tanh[183].

Đến liền xem của Tuấn Khanh,

Giở ra thấy sớ chú danh nữ hài[184].

Khen rằng thiệt đứng nữ tài,

Xưa nay ai biết rằng ai là gì.

Chàng bèn cất sớ dấu đi,

Tiểu hàm lại để cứ y, nào ngờ[185].

Tử Trung tư tưởng thẩn thơ,

Tuấn Khanh sau mới thẩn thơ trở về[186].

Tử Trung khiến nói vân vi,

Dắt tay liền mới ngồi kề cùng nhau.

Rằng anh em những bấy lâu.

Bây giờ hẵn phỉ sở cầu[187] từ đây.

14b        Tuấn Khanh bất ý nào hay[188],

Gẫm mình mình lại nghĩ nay sự mình.

Rằng khi cử động tọa hành[189],

Thì ta đến chẳng lõa hình khi nao[190].

Khác chăng một chút má đào,

Nương long nó đã cao cao bề dầy[191].

Ví mà chàng có biết hay,

Ba kỳ thời đã chi còn đến nay[192]!

Vậy bèn giả hỏi rằng thì,

Việc chi quí hữu trêu ngươi bấy chàng[193].

Tử Trung hỡi hỏi hạch chàng,

Ai ngờ công tử là nàng nữ nhân.

Khi xưa nói cợt sự xuân,

Chước chi biến dịch hôn nhân chớ thì.

Mới hay nhân nguyện thiên tùy,

Lọ là đôi hỏi[194] làm chi nữa mà!

Tuấn Khanh đã rõ mình tà[195],

Phải lừa diệu thủ, Pháp Loa khôn trình[196].

Nhưng thì mình chửa biết mình,

Hỡi còn khép nép thù hình như không[197].

15a        Sớ trong tay áo Tử Trung,

Lấy ra hỏi chữ cẩn phong ai đề[198].

Kìa tang nọ tích làm ghi,

Há vô tang tích mà phi bạn nầy.

Tuấn Khanh đỏ mặt, tía mày,

Nương long thốn thức, gót giày dời chưn[199].

Hình như phi điểu thất quần,

Lạ lùng khôn nẻo ẩn thân náu mình[200].

Nghĩ mình trót lộ sự mình,

Dám xin bày tỏ chơn tình, biết sao!

Lạy nao thôi dĩ đã nao[201]

Hãy khoan khoan đó má đào gởi thân[202].

Cũng mong bể ái nguồn ân,

Song thì đã trót định thân cùng người[203].

Ngựa nào bắt đặng đôi yên,

Cho nên tôi phải bói tên khấn nguyền.

Lòng tôi mộ sắc tham tài,

Hai anh quyết lấy một người kết duyên.

Bắn chim có chữ ứng huyền[204],

Ai hòa bắt đặng thời nên vợ chồng[205].

15b        Phải tay Ngụy Soạn anh hùng,

Đặng tên lại gởi thư phong ngọc lành.

Chữ rằng tòng nhứt nhi chung,

Chẳng thời dám tiếc tiện hình nầy đâu[206].

Chàng rằng báo ứng nhiệm mầu,

Lặng nghe ta kể trước sau cho tường.

Nguyên xưa ở chốn học trường,

Đặng tên đầu thướcthiệt chàng Tử Trung[207].

Mới hay thiên đạo chí công,

Bây giờ lại rõ hình dong rõ ràng[208].

Chữ rằng hạ thủ vi cường,

Ngọc nầy sẵn đặng, ngọc trang làm gì[209].

Nàng rằng hãn thật thế thì,

Tên đề mấy chữ có ghi chăng là.

Chàng rằng phưởng phất ngày xa,

Nghĩ ra thì cũng nhớ ra quên gì[210].

Đề vân:

Thiên bất hư lạc,

Phát tất ứng huyền,

Phi Nga tự ký[211].

Tuấn Khanh rằng mới dị kỳ,

Thế mà anh Ngụy Soạn Chi nhìn càn[212].

16a        Chàng rằng thiên vận tuần hoàn,

Kẻo kêu rằng hiếp rằng quen, xin đừng,

Toại lòng hương lửa tưng bừng,

Tạm quyền ông nguyệt, xích thằng xe dây.

Trăng trăng, gió gió mây mây,

Kẻ yêu quốc sắc, người say anh tài.

Duyên nầy sánh với trời dài,

Bỏ công đèn sách dùi mài xưa nay.

Bỗng đâu dun rủi[213] tới đây,

Tưởng rằng cố hữu, ai hay duyên hài[214].

Trượng phu sắt sắt mới tài,

Thiền quyên khéo nhẽ, quen hoài chẳng tha.

Vin cành âu hẵn bẻ hoa,

Vây lần màn Đỗng, nàng ta bước vào.

Chàng liền cởi áo cẩm bào,

Thiền quyên sánh với anh hào giao hoan.

Trướng loan nghiêng ngữa gối loan.

Thắm duyên thần nữ, phỉ nguyền văn nhân.

Vui vầy bể ái nguồn ân,

Mưa tuông đĩnh Sở, mây vần ngàn Tương.

16b        Khắc giờ hơn nửa ngàn vàng,

Say sưa vẻ nguyệt mơ màng giấc mai[215].

Cùng nhau đã phỉ duyên hài,

Nàng bèn thân thỉ trình lời vân vân.

Thiếp nay là phận nữ nhân,

Song mình đã phó lang quân cầm quyền.

Song còn nghĩ ngợi chưa yên,

Nỗi Soạn Chi trót nhìn tên phải nhằm.

Nay tôi đã lựa sắt cầm,

Ắt chàng Ngụy Soạn tủi thầm không đâu[216].

Tôi xin lập một chước mầu,

Tấn xưa lấy ngựa dịch trâu lọ là.

Nguyên xưa ngày trước đi qua,

Nghỉ thành đô quán gần nhà phú ông.

Thấy nàng thục nữ hình dong,

Ngư trầm lạc nhạn lọt vòng nhân gian[217].

Con nhà Cảnh tướng tiền quan[218],

Thấy tôi muốn kết phụng loan duyên lành.

Tôi đà làm chước từ hành[219],

Song nàng chỉ quyết một tình khăng khăng[220].

17a        Vậy tôi phải lấy ngọc trang,

Mượn đồ chàng Ngụy đưa sang cho nàng.

Lấy làm tiểu lễ vật thường,

Rắp ranh để kết duyên chàng no đôi[221].

Kẻo tôi trước đã hứa lời,

Bói tên thời ở tay người, biết sao[222]!

Mới hay tiền định thiên tào,

Rủi dun thiếp bỗng tìm vào đến đây[223].

Ơn chàng thương đã hậu thay,

Muốn đem nàng ấy về tay Ngụy chàng[224].

Khác nào vàng lại đổi vàng,

Kẻ về bên ấy người sang bên nầy[225].

Tử Trung thấy nói mừng thay.

Rằng thì diệu thủ[226] ta nay đành lòng.

Còn đi xem việc tướng công,

Sớm qua đã tấu cửu trùng ngự coi.

Tụng quan Lại Bộ tra rồi,

Ta đi xem lấy thượng tài làm sao[227].

Tử Trung bước đến lầu cao.

Thấy quan Lại bộ xin vào tấu tri[228].

17b        Phán rằng Tham tướng trung nghì,

               Sai ra trọng trấn biên thùy an dân,

               Thằng Binh Đạo ở bất nhân,

               Mưu đồ ngụy kế trung thần oan khiên.

               Tội thằng Binh Đạo đã nên,

               Đem nước Đông Hải thập niên làm kỳ[229].

Họ Văn phủ nội vật gì,

Phó hoàn Tham tướng lãnh về phủ trung[230].

Lại nhưng trọng trấn đổng nhung[231],

Truyền quan án trấn cứ công phụng hành.

Tử Trung nghe rõ phân minh,

Vợ chồng sắm sửa khởi trình vu qui.

Đến nhà, Tham tướng đã về,

Ngoài dinh, Ngụy Soạn còn kề đợi tin.

Tưởng rằng về tới thì nên,

Chẳng ngờ đã phỏng tay trên, nực cười.

Tổ tôm kia khéo bất tài,

Thập Thành ngồi lặng, Xin Hai lấy tiền[232].

Tuấn Khanh làm chước tùng quyền,

Đổi thay quần áo như in mọi ngày.

18a        Đến mừng Ngụy Soạn trình bày,

               Rằng em cam chịu lỗi nầy xiết bao.

               ‘Nghe rằng anh đỗ bảng cao,

               Vội mừng kể đã xiết bao là mừng[233].

               Cho cam lần suối pha rừng.

               Thần kinh chỉ nẻo tới chừng thăm tin[234].

               Đành hay có chí thì nên,

               Khôi nguyên mừng lại kết hôn phải thì.

               Chữ rằng thiên lý giai kỳ,

               Lọ bày lá thắm, lọ xe chỉ hồng[235].

Nay mừng gặp hội kỳ phùng[236],

Dám xin tạm trú thong dong mấy ngày[237].

Em về bạo bạch trình bày,

Bẩm qua nghiêm phụ người hay sự lòng.’

Nàng bèn vào lạy tướng công,

Giải niềm gia sự thủy chung tự tình.

Rằng:  ‘Tôi có việc tại kinh,

Việc mình mình lại sự mình mình hay[238].

Bởi chưng văn sớ cầm tay,

Tiện khi cầu khẩn đêm ngày cho cha.

18b        Bỗng quên để hở hòm ra[239],

Tử Trung xem thấy biết là nữ nhân.

Lộ tình vả nặng hàm ân[240],

Cho nên chàng ép hôn nhân, đã thành.

Lạy cha xin thú chân tình[241],

Chẳng say hoa nguyệt, chẳng khinh phép nhà[242].’

Tướng công mừng rỡ thay là,

Rằng thì gái trả ơn cha mới tài.

Mừng con đã đẹp duyên hài,

Cũng là duyên phận tại trời xui ra[243].

Nhân sao thấy gả tân khoa,

Ngựa xe đến trú bên nhà đã lâu.

Rằng xưa có thấy vào hầu.

Hỏi han xem ý ra mầu rắp ranh.

Cha thời làm cách vô tình,

Khách thời ra dạng đinh đinh một lòng.

Vắng con cha chẳng chuyện gì,

Bây giờ đã vậy khách mong nỗi gì.

Nàng bèn thưa thốt vân vi:

‘Bói tên chàng Soạn toan khi lận sòng[244],

19a        Được tên là Đỗ Tử Trung,

Con đã tra thiệt thủy chung rõ ràng.

Trình qua nghiêm phụ đặng tàng.’

Soạn Chi đến quán mừng chàng Tử Trung.

Rằng: ‘Tôi thấy sự lạ lùng,

Cho nên phải đến bàn cùng quí huynh,

Nguyên tôi giao với Tuấn Khanh,

Chị chàng tôi có rắp ranh Tấn Tần.

Giao rằng chiếm đặng bảng xuân[245],

Trở về thời sẽ hôn nhân kết nguyền.

Vả tôi đã chiếm khôi nguyên,

Cứ lời giao ước cho nên tới hầu.

Ngỡ là như ý sở cầu,

Ai ngờ biến cải ra mầu bạc đen.

Nỡ nào ở thế cho nên,

Nhẹ bên đai bạc, nặng bên má hồng[246].

Thiền quyên nỡ phụ anh hùng,

Để anh hùng luống mến lòng thiền quyên.

Phiền anh tất lực[247] một phen,

Bẩm qua Tham Tướng có hay chăng chàng[248].’

19b        Thấy lời chơn thật khá thương,

               Tử Trung mới bảo sự tường cho hay.

               Rằng trong tìnhnghĩa chu thai[249],

               Khá thương có một hai ngày rắp ranh[250].

Dám trình sự gả Tuấn Khanh,

               Cải trang bè bạn học hành cùng ta.

               Lần lần năm đã rõ ba[251],

               Trá hình nam tử, thiệt là nữ nhân.

               Bởi chưng để lộ sớ ra,

               Cùng tôi thì đã giao hòa kết duyên.

Mới hay thành sự tại thiên,

               Một lời ước cợt mà nên vợ chồng.

               Rằng thì đã vẹn chữ tòng,

               Chị thời chẳng có, anh cùng cạn chi[252].

               Tỏ bày còn dám dấu chi,

               Anh em là nghĩa lan chi[253] bạn vàng.

               Soạn Chi nghe nói bàng hoàng,

               Giục hề sắm sửa lên đàng hồi gia[254].

20a        Giận rằng thác kế đàn bà[255].

Soạn Chi tưởng lại nghĩ mà hổ ngươi.

               Tìm lời trợ thẹn lấy bài[256],

               Một ngày mắc tiếng, muôn đời tạc bia.

               Thế gian họa hổ họa bì,

               Tri nhơn tri diện ai hề tri tâm[257],

               Sự nầy ta trót đã lầm,

               Vậy bèn kể lể than thầm xưa sau[258].

               Sắc tài ai biết ai đâu,

               Rủi may tại phận ta hầu biết sao!

               Sắt cầm duyên những ước ao,

               Lượng công trình kể xiết bao công trình.

               Vô tình thay khách vô tình,

               Nỡ đem lòng bạc mà khinh nghĩa vàng[259].

               Thấy lời than nghĩ cũng thương,

               Tử Trung mới bảo Ngụy chàng cho hay.

               Đã nên, may khéo là may[260].

               Lễ nghinh hôn đã đặt bày vừa xong.

               Phiền anh vào yết tướng công,

               Cho em làm lễ cúc cung nhà thờ[261].

20b        Soạn Chi mặt mũi lờ đờ,

               Đười  ươi giữ ống, hững hờ tính sao[262]?

               Chẳng đi ấy cũng ra cao,

               Đi thì còn mặt mũi nào mà đi[263]?

               Thôi thôi ừ nghĩ mà chi?

               Lời rằng chữ vị là vì quản bao[264].

               Gọi hề sắm sửa cho tao,

               Đồng cân đai bạc cẩm bào nghiêm trang.

               Bèn vào Văn thị từ đường,

               Cứ trong hôn lễ phần hương khẩn cầu.

               Nguyện xin bao ứng nhiệm mầu,

               Họ Văn họ Đỗ rễ dâu thọ trường.

               Tướng công mở tiệc rõ ràng,

               Khuyên mời tân khách họ hàng no say.

               Đương cơn tiệc ngọc vui vầy,

               Tráp trầu[265] nàng mới sắp bày đưa ra.

               Lễ mừng hai họ gần xa,

               Rồi nàng lại trở gót hoa về phòng.

               Vợ chồng vào lạy tướng công,

               Trở ra cùng Ngụy mạch lòng vân vi[266].

21a        Rằng ba ta nghĩa lan chi[267],

               Phiền anh tạm trú đợi thì sẽ hay.

               Lễ mừng hai họ gần xa,

               Rồi nàng lại trở gót hoa về phòng.

               Để tôi tuyển trạch đặng ngày,

Cùng nhau ta sẽ vui vầy vinh quy.

Soạn Chi ngồi lặng tư lương,

Ra chiều có ý bẽ bàng[268] lắm thay.

Giờ lâu Soạn mới thưa bày,

Dạy rằng đợi một hai ngày thời vâng.

Vợ chồng Đỗ Tử về phòng,

Sắm sanh, đồ đệ thẳng dong lên đàng.

Vó câu khoan bước dặm tràng,

Chỉ thành đô phủ chốn hàng ngày xưa.

Mong cho thấy mặt tiểu thư,

Nạp nghinh hôn lễ ta đưa nàng về.

Gả cho anh Ngụy Soạn Chi,

Cùng nhau ta sẽ vu quy một đoàn.

Còn đương than thở sự duyên,

Thành đô phủ ấy gần miền tới nơi.

21b        Thấy nghe tiếng nhạc vang tai,

Giục lòng thiếu nữ viễn hoài nhớ trông,

Vội mừng ngỡ Văn tướng công,

Nào hay Đỗ Tử tới trong thính đàng.

Phú ông sắm sửa vội vàng,

Ra hầu quý hữu chưa tường duyên do.

Rằng tôi lão dã hèn ngu[269],

Việc chi xin chỉ giáo cho mừng lòng.

Bấy nay[270] chàng Đỗ Tử Trung,

Khuyên mời quan lão tướng công tạm ngồi.

Cho tôi gởi một hai lời,[271]

Có tin hỷ sự vầy vui thay là,

Rằng anh Ngụy Soạn Thám Hoa,

Đồng song vả lại đồng khoa bảng vàng.

Ngày xưa có gởi ngọc trang,

Vốn đem duyên kết cùng nàng tiểu thơ.

Lễ nghinh hôn cậy tôi đưa,

Phiền quan lão tướng chọn giờ nghinh xe.

Mấy lời, lão tướng ngồi nghe,

Rằng: ‘Tôi tuổi tác hàn vi phiếm tài[272],

22a        Có còn con gái nữ hài,

Nguyên xưa đã lấy Tú Tài họ Văn[273]

Chàng còn trở việc nghiêm quân[274],

 Cho nên chưa định hôn nhân đưa về.

Gởi rằng lời thiệt lòng quê,

Còn không lão dám tiếc chi hỡi chàng[275],

Tử Trung rằng vốn ngọc trang,

Tuấn Khanh đã đổi cho chàng Soạn Chi.

Họ Văn đã vẹn vu quy,

Lại giao một bức tiên thi[276] đệ trình.

Phiền già đem tới mặt nàng,

Nhìn xem tự dạng mới tường sự duyên

Nàng nhìn trong bức hoa tiên,

Thảo thư thì hẵn quả nhiên chữ mình.

Song hiềm một nỗi Tuấn Khanh,

Bấy lâu bỗng vắng phong thanh cá nhàn[277].

Chước nào thấy mặt tiểu quan,

Cho cam công kẻ hồng nhan đợi chờ[278].

Quấy người thay bấy ông tơ[279],

Xe dây chểnh mảng, thẫn thờ niềm đơn[280].

22b        Chước chi đặng tỏ căn nguơn,

Ngay tin cho biết bạc đen cho tường,

Nhân sao nhận lấy ngọc trang,

Xưa nay ai biết Ngụy chàng là ai.

Dạy chi những sự trái tai,

Thiên duyên chẳng lọ dễ nài ép duyên.

Ví mà cả thế cậy quyền,

Đã đành bích thủy hoàng tuyền thấy ai[281].

Phiền ông ra gởi lạy người,

Phú ông lại cứ như lời trình qua,

Tử Trung nghe nói thiết tha,

Sai quân về gởi hầu bà  tới đây[282].

Dặn cho tỏ biết nỗi nầy,

Trước sau minh bạch thi bài mới xong[283].

Nàng vâng trang điểm thong dong,

Lên xe liền đến phú ông * đường.

Nực cười thay Cảnh thư nương,

Nhác trông xa ngỡ em chàng Tuấn Khanh[284].

Ghé dòm trong bức mành mành,

Nhìn xem thể dạng sắc hình như in.

23a        Nghĩ rằng nàng tới đem tin,

               Ắt là ta hẵn phỉ nguyền từ đây.

               Vội vàng liền trở gót giầy[285]

               Mời rằng nương tử vào ngay trong phòng.

               Ong mừng bướm bướm mừng ong[286],

               Kẻ đem tin nhạn, người mong thư truyền.

               Hỏi thăm công tử bình yên.

               Đến đây nàng rắp hàn quyên việc gì?

               Tuấn Khanh rằng: ‘Phận nữ nhi,

               Chấp kinh lại phải tùy thời cho thông.

               Thiệt thời ngày trước đi qua,

               Trá hình nam tử nơi ta rõ ràng[287],

               Bởi chưng có việc nghiêm đường,

               Cải trang cho tiện đường trường xông pha

               Nay ta đã vẹn thất gia,

               Trượng phu mới trạng tân khoa nhà ngoài[288].

Còn chàng Ngụy Soạn quốc tài,

               Chưa nơi nào kết duyên hài xứng cân.    

23b        Thấy nàng thiệt đáng phu nhân,

               Cho nên tâm sự ân cần đem sang[289].

               Vốn ngày[290] xưa chiếc ngọc trang.

               Thiệt thì của Ngụy Soạn chàng vấn danh.

               Bởi ta ngày trước trá hình[291],

               Nên bây giờ phải thân hành trình qua,

               Nàng thời sắm sửa bước ra,

Chào quan Hoàng Bảng đồng khoa lấy lòng.

Trở vào lạy tạ phú ông,

Chị em ta sẽ điều cùng vu quy.’

Mấy lời nàng Cảnh ngồi nghe,

Nghĩ rằng chưa rõ Soạn Chi dường nào,

Nhưng thì khoa mục tướng khanh,

Có hình[292] thì lại có danh ắt là,

Nàng vào minh bạch chường qua,            

Phú ông nghe biết lòng hòa[293] mừng thay.

Truyền làm tiệc ngọc vui vầy,

Lễ nghinh hôn cũng đặt bày nghiêm trang.

Nàng vào lạy tạ từ đàng,

Phú ông[294] thôi mới mời chàng Tử Trung

24a        Tiệc rồi đồ đệ thong dong,

               Xe xe ngựa ngựa thẳng dong lên đàng[295],

               Nhìn xem quốc sắc thập phần,

               Nghĩ rằng xuân lại thêm xuân càng mầu[296].

               Mừng lòng, vã toại sở cầu,

               Người xe chỉ thắm, tôi đem lá vàng.

               Song song anh yến phụng hoàng,

               Cùng nhau mở tiệc lên đàng vinh quy.

               Đồn vang kẻ chợ người quê,

               Người xin trắc thất, kẻ đề nâng khăn[297].

               Đua nhau má phấn chen chân.

               Những nơi quán Sở, lầu Tần biết bao.

               Mới hay rằng đỗ quan cao.

               Hương thôn già trẻ xiết bao mừng lòng,

               Bước vào lạy tạ tổ tông,

               Họ hàng thân thích ca khong[298] vui cười.

               Tưng bừng tiệc mở đồi mồi[299],

               Gần xa náo nức người người đều hay,

               Xướng ca đàn hát ba ngày,

               Tiệc rồi ai nấy phân tay ra về.

24b        Tử Trung mới hỏi Soạn Chi,

               Ngọc Trang đã hợp, nào thời trúc tên.

               Giao hoàn cho phỉ sở nguyền,

               Các tùy kỳ tiện[300], mới yên dạ nầy,

               Trúc tên Soạn mới cầm tay,

               Vâng lời bèn mới đưa ngay cho chàng[301].

               Giao hoàn, bốn họ vang lừng[302],

               Có người khoa mục có nàng thục nhân[303].

               Đời đời xuân lại thêm xuân,

               Dõi truyền Đỗ, Ngụy, Cảnh, Văn, bốn nhà.

               Truyện nầy dầu thiệt dầu ngoa[304],

               Cứ trong cựu thuyết dần dà chép chơi[305].

 

 

Chung

 

Nguyễn Văn Sâm phiên âm và chú thích.

(Jan. 2017, Victorville, CA, USA)

 



 

 

 

[4] Chân thiếu nữ 眞少女, giả anh hùng 假英雄: Thiệt là thiếu nữ nhưng tài nghệ giống như nam nhi. (Nữ nhân tài như nam nhi nên gọi là giả anh hùng.)

[5] Tài cô Phỉ Nga hơn tài nam nhân nhiều.

[6] Ả Phỉ Nga 妸菲娥: Cô gái Phỉ Nga. Ả tiếng gọi cô con gái, nay còn xót lại trong từ cô ả, ả nhưng nghĩa đã biến đổi không còn trong sáng nữa mà có chút khinh thị trong đó.

[7] Mẹ mất sớm, chỉ còn cha.

[8] Hai câu: Nhà Tống bùng nở chuyện văn chương, người ta mộ thi văn và coi nhẹ nghiệp võ.

[9] Hai câu: Phỉ Nga quyết chí theo học nghề văn.

[10] Hai câu: Nàng giả trai, mặc quần áo nam nhi.

[11] t: Từ xưa có nghĩa: thiệt là, chắc chắn là, rõ ràng là. Tự vị Huỳnh Tịnh Của HTC): Ốt: Ắt thật. Bản Thành Thái, ông Durand đọc 沃là ốc. Đinh Gia Thuyết (ĐGT) thay chỗ từ ốt nầy bằng chữ đích. Tuồng Tây Du Ký, hồi 20 có chữ ốt nầy: Tên ở đâu rất rối, Nói mọi việc (20 2A) không xong. Cách nước non ốt chửa mấy trùng, Xa nhà cửa thoắt sanh báo oán. Ghi nhận là chữ Nôm hai bản văn viết khác nhau về chữ ốt.

[12] Từ giả cha lên đường đi học. Tòng sư: Theo thầy học tập.

[13] Tư phong chỉnh chiện 姿丰整 口篆: Phong cách nghiêm trang đứng đắn. Chữ chỉnh chiện thường dùng trong tác phẩm của những thế kỷ trước. Thơ Nguyễn Trải: Giàu chỉnh chiện, khó thày layNgôn từ thong dong 言辞從容: Lời nói nhẹ nhàng. Bảng quốc ngữ Đinh Gia Thuyết (ĐGT): ngôn từ khoan dung. Từ khoan dung không hợp ở đây. Ghi chú: Để cho việc chú giải khỏi rườm rà chúng tôi không liệt kê hết những khác biệt của bản chúng tôi phiên âm ra đây và bản ĐGT- có thể là mấy trăm- chỉ ghi lại một vài chỗ rất cần thiết làm chứng thôi.

[14] Đua nhau trận bút 都饒陣筆, vẫy vùng kình côn 捤摓鯨鯤: Học hành thi thơ, trao dồi để đếnngày thành tài, như cá côn cá kình vượt qua thác lờn.  Nguyên bản Nôm hai chữ vẫy vùng không được chuẩn.

[15] Cá vượt vũ môn 𩵜越禹門: Chỉ sự thi đậu.

[16] Ba người đậu đầu kỳ thi Tú Tài.

[17] Cả ba người chỉ lo học tập mà thôi. Mặc ai kết chỉ 黙埃結㫖, mặc ai gieo cầu黙埃招求: Không chú ý đến chuyện lấy vợ (kết chỉ) lấy chồng (gieo cầu).

[18] Vắng vẻ thư lâu: Khi phòng học không có ai. Khi một mình.

[19] Trình hầu 呈候: Nói chuyện, thưa chuyện.

[20] Cùng tuổi ngang ngửa, cùng tài năng, cùng thi đậu một khóa.

[21] Chước chi biến dịch thư hùng 䂨之変易雌雄: Có cách gì biến đổi thành gái và trai. Thư雌, chỉ nữ, hùng 雄chỉ nam.

[22] Mỉn cười 𠲶唭: Nay nói mỉm cười. Tôi dùng mỉn theo Huình Tịnh Của (Mỉn cười: Nhích môi một thí mà cười, không cho thấy miệng cười. Đứa dại hay cười cả tiếng, người khôn mỉn cười. Mỉn cười: Cười chuốm chím) và theo âm chữ Nôm miễn免. Văn quốc ngữ đầu thế kỷ thường dùng chữ mỉn, đặc biệt trong quyển Hiệp Nghĩa Phong Nguyệt 俠義風月của Nguyễn Chánh Sắt, Saigon, 1931, dùng thiệt nhiều chữ mỉn cười nầy.

[23] Đoạn nầy cho thấy Tử Trung nói ra lòng ước ao của mình, Soạn Chi điềm đạm hơn không nói ra trước nhưng chẳng chịu thua, cũng nói ra sự kiện mình thích có người vợ như Tuấn Khanh. Chữ cho chúng tôi đọc theo mạch văn. Nguyên văn viết là chữ tông, 宗 ngờ là nhầm với chữ chu 朱 do hơi giống tự dạng nhứt là vội vàng khi khắc bản mà không rõ nghĩa (thợ Tàu, khắc ở bên Tàu.)

[24] Tuấn Khanh nghe bạn nói thì giựt mình ôn lại những cử chỉ trước đây, lo sợ rằng mình có gì thất thoát trong sự cải trang cùng cử chỉ. Do đó Tuấn Khanh xin kiếu từ.. Lõa lồ hình dong 課露形容: (Tuấn Khanh sợ) Bị thấy gì đó mà người ta có thể đoán được chân tướng muốn giấu của mình.

[25] Khôn nẻo đề phòng : Không có cách ngăn ngừa. Để ý chữ nẻo 裊là phương cách, cách thế, nghĩa tương tợ như đường nhưng trừu tượng, nay  nghĩa nầy đã mất chỉ còn mang nghĩa cụ thể là đường, lối đi.

[26] Nói thác rằng (mượn tiếng) cha mình (tướng công) kêu nên phải về. Gọi là tướng công vì cha của Tuấn Khanh đương làm quan.

[27] Ý rằng gái trai gần gũi nhau nguy hiểm…

[28] Tức Soạn Chi.

[29] Hai câu: Sợ rằng một trong hai người phát giác, cho nên hay nhứt là phải lo tránh trước. Cao chạy xa bay: Đi (về với phụ thân) để tránh chuyện vỡ lỡ. Mới hào買毫: Mới là hay, là giỏi.

[30] Hai câu: Dẫu cẩn thận mấy cũng khó dấu vì ngực nổi lên và má ửng hồng của thiếu nữ khó che đậy nếu người ta chú ý.

[31] Hai câu: Khó thể giữ gìn mãi được. Lửa rơm thế nào cũng bùng phát.

[32] Tức Tử Trung. Vậy ba nhân vật trong chuyện là: Văn Tuấn Khanh, Ngụy Soạn Chi và Đỗ Tử Trung.

[33] Âu ta: Ta phải.

[34] Sắc hiền tày nhau: Hình dung và tài năng cũng ngang nhau. Hiền đây nghĩa là tài giỏi, như trong thành ngữ ghen hiền ghét ngỏ.

[35] Khó chọn người nào để sánh duyên vợ chồng.

[36] Ý nói một gái không thể lấy hơn một chồng.

[37] Nghĩ mình khó tự chọn vì hai người họ ngang ngữa tài nhau, thôi thì nhờ cách thế của trời đất định giùm.

[38] Nghe tiếng chim kêu thì lòng càng buồn hơn.

[39] Trên cây thước đỗ xa xa vừa tầm: Có con chim thước đậu trên cây xa xa nhưng mà vừa tầm tên bắn.

[40] Tám chữ gì cho tới giờ nầy vẫn chưa cho người đọc biết. Cách viết như vậy gọi là phục bút.

[41] Phát tất ứng huyền 發必應弦: Bắn ra ứng với dây cung (để rơi vào tay người có mối lương duyên với mình).

[42] Chữ Nôm viết lâu 𥹰, ngờ là lầm với chữ sau 𡢐. Tùy nhi 隨兒: Người hầu nhỏ, hề đồng.

[43] Tử Trung đưa cho Soạn Chi để đi công việc. Vậy là người nầy bắt được cây tên bói duyên mà người kia giữ tên đó. Sự hiểu lầm xảy ra từ đây.

[44] Kỳ tài bắn dương: Có tài bắn cung tuyệt vời. Xưa có người đứng xa trăm bộ bắn tên xuyên qua lá dương trăm lần như một.

[45] Theo hề về tỉnh lưỡng đường xuân huyên : Theo hề đồng (tiểu đồng) về thăm viếng cha mẹ.

[46] Không biết gì hết về nhân vật nầy. My nga chưa tỏ 眉娥渚訴: Chưa rõ mặt mày như thế nào.

[47] Đường đường: Phong thái nghiêm trang, thanh tú. Kiều: Đường đường một đấng anh hào.

[48] Câu đão ngữ, ta hiểu là: (Tuấn Khanh) thấy mặt Tuyển Chi đương ngẩn ngơ.

[49] Phụ nữ khó mà có người tài nghệ như vậy. Mấy thân 買身: Mấy người.  Lành nghề 苓藝: Giỏi dang về chuyện gì đó, đây là chuyện bắn cung.

[50] Tìm mai 𡬶枚: Một cách nói cho đẹp về sự đi dạo.

[51] Tuấn Khanh nói rõ rằng người bắn ra tên ấy là người nữ, bởi vì có bài thơ kèm theo.

[52] Nữ mà như thế thì thì phải là người rất giỏi, thi  thì đậu đầu. Chữ đầu lồng 頭篭ở đây khó hiểu. Bản ĐGT: đầu dòng.

[53] Hỏi tuổi. Câu này không hay vì trùng ý hai tiểu đoạn.

[54] Câu hỏi rõ ràng về người nữ vắng mặt: Tuổi bao nhiêu, có ai chưa?

[55] Câu trả lời rất hợp ý người hỏi: Chị tôi cũng giống/đẹp gái như tôi…

[56] Phi vi: 非違: Điều sai trái. Hai câu: Gia giáo không cho tôi nhắn nhe gì, hay trả lời thêm chuyện gì nữa về chị tôi vì đó là điều vượt lễ nghĩa gia đình.

[57] Nhắn hỏi làm gì, không ai nói  đâu, tôi không trả lời đâu. Chường 呈: Trình, báo, thưa lại, nói lại. Từ xưa.

[58] Xây vần cho nên 磋運朱𢧚: Với sự giúp đỡ của tôi thì có thể được. Cho nên 朱𢧚: Thành sự được.

[59] Hạnh may hương lửa hữu duyên 幸埋香焒有縁: May mắn mà có được sự thành trong cuộc hôn nhơn nầy. Chữ hạnh may có thể đọc là hạnh mai, chỉ cây hạnh và cây mai, chỉ hai người, nhưng khi viết Nôm đúng thì viết cách khác, 杏梅, chúng tôi đọc theo cách viết Nôm của chữ mai埋và chữ hạnh幸 trong nguyên bản.

[60] Tuấn Khanh luôn luôn nhắc đến thư đề trên mũi tên của mình, cho đó là tiền duyên, không nói gì đến tình yêu.

[61] Tôi sẽ lựa lời mà noi với chị tôi.

[62] Chớ thì 渚辰: Nếu không (được sự giúp đỡ) thì (không thành công) trong cuộc tình duyên của tôi sắp tới.

[63] Báu kỳ 宝奇: Của quí giá lạ lùng, ít có.

[64] Soạn Chi làm bài thơ kèm theo, như sẽ thấy ở dưới.

[65] Vi vật 㣲𢪱: Vật nhỏ mọn không đáng gì. Soạn Chi nói khiêm về ngọc trang báu kỳ của mình.

[66] Chị ả姉妸: Tiếng xưa chỉ về người chị (của Tuấn Khanh, đương vắng mặt.)

[67] Hai câu: Vật nầy như làm tin về sự có mặt của người ở xa. Thấy vật thấy người, quí của thương người.

[68] Nghe tiếng nàng thì kẻ sĩ Nho nầy lòng rung động. Người đi học được gọi là Nho sĩ. Trong Nam nhiều khi chữ Nho được gọi là chữ Nhu nên có ca dao: Anh về học lấy chữ Nhu, chín trăng em đợi mười thu em chờ. Chữ Nho được đánh giá cao vì đường tiến thân dễ dàng của người học.

[69] Nàng đã ra tài đem con chim thước đến cho tôi, việc đó như là chim ô thước bắt cầu sông Ngân (cho Ngưu lang với Chức nữ). Ý nói nhờ đó mà tôi được biêt về nàng. Tòa ngọc 座玉: Chỉ người đàn bà đẹp, ý nói nàng Phỉ Nga. Nhờ thuở 洳課: Nhờ dịp đó nhân chuyện đó, lúc đó.

[70] Tuấn Khanh nhận của như là từ người mình đính hôn và mình đã nhận lời.

[71] Bốn câu nầy rất quan trọng trong diễn tiến của câu chuyện vì trong lòng nàng Tuấn Khanh/Phỉ Nga chỉ muốn mình được kết hôn với Tử Trung, bây giờ sự thể lại là người khác.

[72] Chẳng rắp mà nên 庄㕸麻𢧚: Không định như thế mà xảy ra như thế. Chẳng muốn Soạn Chi nhận được mũi tên mình bắn ra thế mà trớ true Soạn Chi lại có được và đưa cho mình.

[73] Cũng là ý ở trên, long ‘nàng’ Tuấn Khanh thích người Tử Trung hơn!

[74] Chắc đã hẳn mười 聀㐌罕𨑮: Chắc rằng mình sẽ được vợ đẹp tài và nhứt là giống Tuấn Khanh. Như bắp!

[75] Tuấn Khanh lại xác định lần nữa là chuyện cưới xin coi chắc chắn, đã xác định (đã đành).

[76] Thi đậu đi rồi tính tới.

[77] Chớ lệ 渚戾: Chớ sợ, đừng ngại. Bản ĐGT chớ nệ, dễ hiểu nhưng không đúng ý của câu chuyện: Tuấn Khanh an  ủi là đừng sợ, chớ không phải xin đừng câu nệ, đừng chấp nhứt.

[78] Chữ lâu 𥹰 Nôm đã bị khắc sai thành loài 𩔗.

[79] Lời nhắn xa xôi: Xin đừng tham chỗ khác khá hơn, tài giỏi hơn mà bỏ lời hứa để đi qua chỗ mới, thường là còn tệ hơn. Lươn và cá chạch hơi giống nhau, một con dài một con ngắn hơn. Chê lương vắn, ham chạch dài, té ra chạch còn vắn hơn.

[80] Đôi nơi cao đầy: Trời và Đất, tức Thiên,  Địa. Hai thứ thiêng liêng mầy chứng minh, mình làm quấy thì thẹn với Trời Đất. Hổ: mắc cở. Từ nầy trở thành xưa vì nay người ta không dùng một mình nữa.

[81] Lời nhắn rất cao kỳ của ‘nàng’ Tuấn Khanh.

[82] Tôi không hiểu rõ câu nầy. Có thể là tác giả nói với độc giả họ còn đương nói chuyện với nhau buổi chiều, tối sắp xuống thì nghe tin có chiếu mở khoa thi. Một cách nói để chuyển đề. Chữ song Nga 双娥trong bản Nôm  đáng lẽ viết 牕娥.

[83] Chữ Nôm ngày 𣈗 trong bản khắc sai thành người  .

[84] Đậu Tú Tài là hay  là tốt rồi. Thôi đừng đi thi them nữa.

[85] Sự giác 事覺: Công việc bị dỡ lỡ ra người ta biết… Những chữ như sự giác , chớ lệ.. là những chữ dùng theo lối xưa mà tác phẩm sau đó không còn thấy nhiều nữa vì khó hiểu.

[86] Thốt thôi 説催: Cách nói để chuyển đoạn. Như trong văn dịch đầu thế kỷ 20 ở Miền Nam các dịch giả thường viết: Đây nói về….

[87] Chữ Nôm đường 唐đã bị khắc sai thành quân 君.

[88] Từ thi 辞詩: Từ chối đi thi, bỏ thi. Chữ Nôm người khắc thích dùng đồng âm.

[89] Đầu quyển 投卷: Đưa sách (trắng) [để chủ khảo đóng dấu vào chứng tỏ rằng mình không viết trước.]

[90] Bất hài 不諧: Chẳng hòa thuận nhau.

[91] Vọng tâu 望奏: Tấu trình dối trá.

[92] Ngày xưa, cũng như ngày nay, dưới sự cai trị không luật lệ đàng hoàng khi có lời tố cáo thì chưa cần biết thiệt hư đã giam tra người ta!

[93] Cả câu: ‘Nàng’ Tuấn Khanh khóc lóc quá chừng vì thương cha. Vừng 𥣐: Một khối lớn một bựng lớn. Thành ngữ: Lưng lớn một vừng.

[94] Rừng hoang nội quạnh 棱荒内瓊: Chỗ cực khổ nguy hiễm khi đi qua.

[95] Bốn câu: Tuấn Khanh nói mình không ngại khó nhọc nguy hiễm khi đi lên kinh để kêu oan, miễn là cha con sau nầy được đoàn tụ. Thiên thu an lành 千秋安: Ý nói an lành từ đây về sau. Câu thơ đặc biệt vần ở chữ thứ năm.

[96] Ơn sâu 恩𥹰: Bản Nôm viết như thế có thể đọc là ơn lâu. Chọn đọc ơn sâu vì đó là cách nói thông thường trong tác phẩm Nôm. Vã lại chữ lâu 𥹰có thể là người khắc muốn viêt chữ sâu 溇 hay娄. Đọc sâu trong trường hợp nầy không sai về mặt Nôm.

[97] Không nhưng 空仍: Không có chuyện gì, khi không.Ngoan  phiền 頑煩: Phiền não lớn. Bản Nôm viết tần phiền 頻 煩, tôi nghĩ là ngoan phiền 頑煩. Không nhưng 空仍: Không có chuyện gì, khi không.

[98] Bốn câu: con của Tham Tướng là người quốc sắc còn chẳng ngại  để đi kêu oan, huống chi  là người không có tài sản gì hết như chúng mình xin đừng ngại khó nguy. Kẻ nhưng 几仍: Người nghèo khó chẳng có chi.

[99] Hai câu: Bà vợ của Long  cũng hóa trang. Vợ chàng 撞Long, bản Nôm khắc vợ chồng [重夫] Long, nghĩ là nhằm.

[100] Chứng thử thốn thầm 証此寸忱: Xin chứng cho tấc lòng thành thật nầy. Thầm 忱: Thành thật.

[101] Đã hầu tới nơi 㐌候細尼: Đã gần tới nơi. Chữ hầu 候nay cũng thuộc vô nhóm từ cổ.

[102] Hai câu: Lúc nầy thì đã có chỗ nghỉ chơn tiện nghi.

[103] Hai câu: Cách một bức tường (bằng cây liễu) có một nàng tiểu thơ.

[104] Phong nghi chỉnh chiện: Xem chú ở trên.

[105] Rủi dun 𣲆敦hay dun rủi: Trời xui đất khiến cho gặp nhau. Cụ ĐGT : Giẩy giun, nhưng không giải nghĩa.

[106] Hai câu: Nàng nép vô tường để coi người kia có tình ý gì hay không khi thấy gái. Lo tính cách thế coi ý người kia ra sao! Ngẫu riêng 耦𥢆: Một mình mình lo tính. ĐGT: Liếc xem.

[107] Hai câu: Nàng càng nhìn Tuấn Khanh càng mê mệt, càng hứng khởi, ngực phập phồng, mồ hôi đổ ra. Tả chân như vậy thì văn gia ngày nay cũng khó qua.  ĐGT nói câu nầy hai chữ nương long có bản khác là cõi lòng: Vậy cụ ĐGT có ít nhất là ba bản Nôm. Tiếc là cụ không đưa lên bản nào khiến ngày nay người đi sau mờ mịt.

[108] Giao hoan một phòng 交歡𠬛房: Nghĩa xưa, lúc tác phẩm xuất hiện, thì nhóm từ nầy có nghĩa là cùng vui với nhau, như uống rượu, ngâm thơ, chơi cờ, chuyện vãn, không có chuyện sex ở đây như nghĩa chữ giao hoan hiện tại.

[109] Hai câu: Ta thầm yêu chàng, chàng sao chẳng biết thế? Nữ tính cao quá cái cô nàng nầy!

[110] Ruột tằm gan vượn 𦛌蟳肝猿: Lòng rối rắm, suy nghĩ lung tung. Ruột tằm chỉ sự đứt nối;gan, lòng vượn chỉ sự lộn xộn, không định.

[111] Chưa định kinh quyền 渚定經權: Không biết hành động thế nào cho phải:  Làm thinh tơ tưởng (kinh, theo sách dạy) hay nói cho người kia biết (quyền biến, tùy theo hoàn cảnh mà làm, có thể trái với sách về đạo lý.)

[112] Lập trí làm cao 立智爫髙: Tuấn Khanh biết rồi nhưng làm cao cứ nhẩn nha như là không biết. Bản ĐGT: Lập chí. Chữ chí chỗ nầy không ổn.

[113] Giục hề lầy rượu đưa vào một phong 逐兮礼𨢇迻𠓨𠬛風: Sai tiểu đồng lấy rượu đưa vào.  Một phong 𠬛風: Một gói, một hộp. Như ta nói phong thơ. ĐGT: bình phong, vậy thì Tuấn Khanh uống rượu và ngồi trong thư phòng, có bình phong che?

[114] Tiệc ngọc 席玉: Tiệc, như tiệc đồi mồi trong câu thơ ở dưới. Các chữ ngọc, đồi mồi là chữ đệm cho vui/đẹp câu văn, chẳng có giá trị thực sự.

[115] ĐGT: Nhà nàng tôi ở gần kề lân la. Chữ lân la không chỉnh. Bản ĐGT có thêm hai câu: Trộm nghe công tử đường xa. Trà thang sẵn có của nhà đưa sang.

[116] Chữ chút 𡭧, Nôm sai.

[117] Bốn câu: Cám ơn lắm, nhưng tôi không biết là nên từ chối hay nên nhận vì từ chối thì  sẽ bị coi như làm cao, còn nhận thì chẳng biết từ đâu mà có quà nầy. Chữ ru trong câu nầy quá hay nhưng viết Nôm bằng dâu 妯, nên khó đọc, thường ru viết cách khác: 𠱋, 油 .

[118] Hai câu: Nhận thì sẽ phải trả nhưng không biết bao giờ mới có dịp trả đền.

[119] Trượng mạo: 杖䫉, như tướng mạo.

[120] Hai câu: Công tử đi đường xa mà ở đây thì hàng quán không sạch sẽ.

[121] Sai hành tôi đưa 差行碎迻: Hành tội tôi khó nhọc làm chuyện nầy. Cách nói xưa của nhóm từ sai hành. Nay không nói như vậy nữa.

[122] Họa nên kim cải duyên ưa 禍𢧚金改縁於: Biết đâu hai người hợp duyên làm vợ làm chồng sau nầy.

[123] Cẩn phong 謹封: Gói lại cẩn thận (bài thơ mình vừa làm).

[124] Mụ lão

[125] Vân vân mọi lời cũng là cách nói xưa là nói hêt mọi chuyện, mọi điều.

[126] Cả đoạn dài: Mụ lão  hỏi người giúp việc của Tuấn Khanh, anh nầy nói là Tuấn Khanh chưa có vợ, mụ được chi tiết nầy thì thích thú ra về. Rạch ròi 格𢬗: Rõ ràng. Bản Nôm viết rạch bằng cách 格 nhưng sai nét.

[127] Chuyện thơ từ, chuyện trông thấy tướng mạo khi không đem đến sự phiền não nhớ nhung. Dắt 𢴑: Đem đến.

[128] Trẩy qua 𥙒戈: Đi qua. Bản văn nầy giá trị ở những chữ xưa như thế nầy. Mọi sự thay đổi các chữ xưa khó hiểu đối với người đọc ngày nay đều là làm cho bản văn mất thời gian tính. ĐGT: Dạo qua, không hay bằng. Đây không phải là dạo, đây là đi...

[129] Giục già đem tới lang quân 逐𦓅𡧄細郞君: Hối bà cụ đem thư nầy tới tình nhân (của tôi). Chữ lang quân郎君(chồng/tình nhân) ở đây cho thấy có điều gì hơi quá trong tình yêu và ngôn từ của cô gái mồ côi họ Cảnh. Bản ĐGT dùng chữ Văn quân nhã hơn.

[130] Lựa lời嚧𠳒: Giao cho bà lão nói năng khôn khéo dễ được việc.

[131] Gởi phú ông 𠳚富翁: Thưa với phú ông, chữ gởi 𠳚cũng là từ xưa như thân 呻, trình 𠴔, nay còn xót lại trong từ thưa gởi.

[132] Tính khí thiệt thà: Tính tình là người chơn chất.

[133] Tin nhạn: Tin, tin tức. Xưa ưa dùng mấy chữ tin nhạn, tin cá, để chỉ tin tức.

[134] Rén rén 練練: bộ rón rén, dáng từ tốn do kính trọng, do sợ lo… Len lén có nghĩa lén lút

[135] Hai câu: Tiếc mình cùng một phái, nếu đàn ông kết duyên thì quá đẹp.

[136] Chữ ru 𠱋mới viết đúng ở chỗ nầy, những chỗ khác thì không được đúng!

[137] Quỷ kế 鬼計: Kế tinh vi để giải quyết chuyện khó khăn. Bởi vậy sau nầy Ngụy Sách thấy mình thua trí Tuấn Khanh đã than rằng mình bị đàn bà thác kế. (làm kế, mượn kế để thắng mình.)

[138] Hỡi chàng : Lời nhắn với người vắng mặt. Chữ chàng bản Nôm dùng chữ trình , cũng đặc biệt.

[139] Bất khả hạ đường/đàng : Ý nói không thể bỏ vợ hay cho xuống hàng tì thiếp được.

[140] Hỏi chường: Hỏi trình, thưa hỏi. Đọc chường chỗ nầy vì ý thơ vì cách viết chữ Nôm, tác giả muốn người đọc đọc khác với chữ chàng ở câu sau.

[141] Không đâu : Nếu không thì tôi không làm chuyện nầy.

[142] Năn nỉ: Trình bày, giải thích.

[143] Tuổi trông ngoại thất thập tuần 𡻕妄外七十旬: Tuổi vẻ như ngoài bảy mươi. Trông, bản Nôm dùng chữ vọng 妄 ít thấy, thường là chữ vọng

[144] Hạnh ngộ 幸遇: Sáo ngữ nói rất may được gặp. Bản Nôm viết ngộ hạnh, sự sai vị trí thường thấy ở bản khắc của bản Phật  Trấn. Xem chú ở trên về từ hạnh may.

[145] Bấy nay ở cùng: Lâu nay Cảnh tiểu thơ ở với ông ngoại.

[146] Đọc tạm là kim chỉ, nguyên chữ là châm cảo.

[147] Ông cho cháu ngoại gái mình tự chọn nơi vừa ý. Cũng là một điểm mới trong tư tưởng của những áng văn Nôm!

[148] Sĩ hàn : Kẻ sĩ hàn vi.

[149] Muốn nói mình không xứng vì con nhà võ. Thời Tống nhà võ bị khinh hơn nhà văn. Vũ tướng nhi hài: Con của người nhà võ, cũng là cách nói rằng mình thuộc giới thấp hèn của thời đó, thời trọng ăn khinh võ.

[150] Đai bạc áo bào: Nói mình được chức nơi quan trường.

[151] Chữ khuyên ở chỗ nầy có nghĩa là năn nỉ.

[152] Về không : Về mà nhiệm vụ chưa thành. Đi mà công cóc. Đi không lại về không.

[153] Hai câu: Chàng cũng là người nhà sang trọng, chớ đâu phải nghèo hèn gì. Già nghĩ là xứng đôi.

[154] Thân giùm 親用: Thưa giùm, nói chuyện với người trên trước giùm. Từ xưa. Thường chữ thân nầy viết bằng 呻. Bản Nôm mà cụ ĐGT dùng không còn những từ xưa như chữ thân 呻, chữ trẩy 𥙒 khiến ta có thể đặt giả thuyết đó là bản mới được sửa lại từ bản Phật Trấn nầy.

[155] Cạn cùng 口件 穷: Nói đã hết lời thấu lý, khó nói hơn thiệt khác được.

[156] Xin vâng lời kẻo phụ lòng của lão trượng. Lúc nầy Tuấn Khanh buộc lòng lắm mới chấp nhận nhưng chưa biết về sau sẽ giải quyết thế nào.

[157] Lấy gói ngọc trang trong mình. Câu đão ngữ. Bản Nôm xếp lộn lấy gói thành gói lấy.

[158] Khởi trình: Bắt đầu lên đường. Giai thành: Đều thành. Cách nói ảnh hưởng của Trung quốc.

[159] Nàng nhận được ngọc trang như sự đính hôn thì tăng thêm thương nhớ và xua đi sự sầu muộn. Khơi bể ái : Làm cho nhớ thương tư tưởng về người trong mộng của mình. Chữ 摳đọc Nôm xua là đuổi đi, xua đuổi, khua là làm ra tiếng động, chúng tôi chọn xua.

[160] Gác yên, cật ngựa 恪鞍𦛋馭: Đặt yên lên lưng ngựa, tức sửa soạn ra đi. Cật ngựa 𦛋馭: Lưng ngựa, cỡi ngựa.

[161] Đường xa đi qua núi qua rừng. Những chữ Thứu Lĩnh, Dương Quan là những chữ làm đẹp cho câu văn, không có nghĩa thực. Các chữ non, ngàn mới quan trọng trong câu nầy.

[162] Một đoạn dài nói về tình cảm của nàng Cảnh, cũng thuộc dạng văn chương khá hay.

[163] Tóc mây biếng chải 𩅘𩄲丙扯: Rủ rượi, không chú ý săn sóc mình. Cơm thường thờ ơ 𩚵常蜍於: Cũng chẳng muốn ăn uống.

[164] Mặt hoa quái dạng : Sắc đẹp bị tàn hao đi, không còn xinh tươi nữa. Chắc việc nầy xảy ra không lâu dài, sau đó thì đẹp trở lại….

[165] Khúc cầm biếng khảy 曲琴丙𢭮: Lười chơi đàn. Lá thơ ngại đề 𦲿詩碍題: bỏ làm thơ. Những thú vui tao nhã xưa cũng chẳng hề đụng tới.

[166] Công tử dường hoa : Công tử đẹp trai!

[167] Nguyên đoạn nói tâm tình của nàng Cảnh tiểu thơ bản Đinh Gia Thuyết không có.

[168] Chữ ngọc nhan 玉顏tác giả dùng để hé lộ cho ta thấy Phỉ Nga dưới hình dáng nam nhi Tuấn Khanh cũng đẹp đẽ, tha thước…

[169] Cũng như vài trường hợp đã nói, bản Nôm xếp lộn hai chữ rằng xin thành xin rằng.

[170] Tha hương ngộ cố : Tức tha hương ngộ cố tri = Nơi xa xôi quê người mà gặp lại bạn cũ. Đó là điều đáng vui mừng.

[171] Vui cố hữu 𢝙固友: Vui gặp lại bạn xưa.

[172] Hỏi Ngụy tôn nhan đâu rày 噲魏尊顔兜𣈙: Hỏi anh họ Ngụy đâu không thấy. Chữ Ngụy 魏khắc sai thành ngoại 外?

[173] Cả câu: Nín thinh không nói vì sợ lộ chuyện của mình. Làm Chữ hở hang nầy khác nghĩa với bây giờ (về ăn mặc của nữ giới)

[174] Hai câu: Vì bị trả thù cho nên bác trai bị ở tù oan. Oan tù 𡨚囚: Bản khắc mất nét thành oan đồng 𡨚同.

[175] Tua lấy một văn 修𥙩𠬛文: Phải làm một bài văn. Cách nói xưa hơn bản của ĐGT: Làm một bản văn.

[176] Kẻ mỏng người dầy đỡ nhau 几蒙𠊛𠫅扡饒: Kẻ không có thế lực nhờ người có quyền thế giúp đỡ.

[177] Tuấn Khanh nghe thế thì vui trong dạ.

[178] Đệ hầu quan nhân 逓候官人: Đưa cho quan, đây là đưa cho Tử Trung.

[179] Tùy nhi: Thường từ nầy nầy chỉ người trẻ đi theo giúp việc. Đây chỉ hai vợ chồng đầy tớ trung thành mà người vợ đã giả trai đi theo.

[180] Hỏi đến kinh kỳ mấy khi 哙典京畿𠇍欺: Vậy chớ dễ dàng gì mà đến được kinh đô?

[181] Hai câu: Trong khi Tuấn Khanh đi xem cảnh kinh đô thì Tử Trung, vì muốn  báo tin kết quả sự can thiệp của mình, đến nhà Tuấn Khanh.  Chuyện chuyển biến đột ngột từ đây!

[182] Nhác xem 拮袩: Chợt thấy. Chữ Nôm nhác viết (đúng) với âm các là 䀩, bản Nôm viết với âm cát 吉nên thành chữ cất 拮, đọc cất thì không hợp, chắc chắn rằng tác giả muốn viết chữ nhác là chữ thường dùng thời đó trong trường hợp nầy.

[183] Tiểu hàm khóa ngõ : Rương nhỏ không có khóa. Khóa ngỏ là cách nói xưa chỉ không có khóa, như nói cửa bỏ ngõ, thư ngõ là thư không niêm, không dán kín. Người hòa vắng tanh 𠊛和永腥: Người cũng vắng không. Từ cổ hòa 和là cùng, cũng, với… Những tác phẩm vào thập niên cuối của thế kỷ XIX không thấy nhiều nữa…

[184] Chú danh nữ hài 註名女孩: Ký tên là tên con gái. Hành động nầy đối với ngày nay là không được, không được, có thể bị tù như chơi.

[185] Cả câu: Rương nhỏ để lại như cũ thì ai biết gì đâu về người đã xem đã lấy. Quan trọng là chữ nào ngờ 芾疑trong câu.

[186] Hai câu: Tử Trung khi biết Tuấn Khanh là con gái thì nghĩ ngợi miên man. Còn Tuấn Khanh thì cứ ‘vô tư’ dạo chơi phố xá. Hai câu nầy người khó tánh sẽ bực mình khi thấy từ thẩn thơ lập lại, nhưng lại là điểm son vì rất đặc biệt chỉ tình trạng của hai người…

[187] Phỉ sở cầu 斐所求: Toại nguyện những gì mình muốn. Ý nói ngày xưa mình ước ao được vợ giống như Tuấn Khanh, từ nay mình sẽ được.

[188] Bất ý nào hay 不意芾咍: Không chú ý đến ý nghĩa tiềm ần trong câu nói nên không hiểu rõ rang người đối diện  nói ẩn ý gì. Dắt tay, xưa nắm nay nam nhân bạn bè, giờ nắm tay người đẹp mình yêu dấu.

[189] Tọa hành 坐行: Ngồi, đi. Nói chung là cử chỉ đi đứng…

[190] Chẳng lõa hình khi nao 庒裸形欺芾: Không bao giờ để hé lộ (để bị phát giác là gái.)

[191] Hai câu: Khác người ở chút má ửng hồng và ngực đã húp húp… Nương long 娘竜: Ngực thiếu nữ. Hồ Xuân Hương: Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

[192] Đoạn nầy Tuấn Khanh suy nghĩ về hành vi cẩn thận đã qua của mình, tin tưởng rằng Tử Trung không thể biết mình là gái.

[193] Hai câu: Nàng làm bộ hỏi (giả hỏi) vì sao mà nói chọc tôi vậy. Trêu ngươi 吱𤽗: HTC, trêu ghẹo, bày ra trước mắt mà làm cho nặng lòng kẻ khác. Trong nghĩa câu nầy thì trêu ngươi chỉ mang nghĩa trêu chọc, trêu ghẹo. Bản Nô viết chữ trêu 吱 theo giọng đã đớt bình đân: chê> chêu>trêu.

[194] Lọ là đôi hỏi 路羅堆𠳨: Cần gì đôi chối nữa, chắc chắn quá rồi. HTC, G. Hue đều không có từ đôi hỏi. G. Hue có từ đôi hồi, nghĩa như đôi chối.

[195] Tuấn Khanh đã rõ mình tà 俊卿㐌訴命邪: Tuấn Khanh biết mình đã không phải trong vụ nầy khi gạt người rằng mình là trai. HTC, Tà : Gian vạy, xiên xẹo, không ngay thẳng, xấu xa. Cách nói kiểu một chữ tà đơn độc nay không còn.

[196] Pháp Loa khôn trình 法螺坤呈: Chưa tường điển tích nầy.

[197] Nguyên câu: Vẫn còn ngồi như không có gì xảy ra. Thù hình 殊形: Hình dáng, cử chỉ. Chữ thù 侏殊洙…  viết sai thành chu 珠khó đọc.

[198] Cẩn phong ai đề 謹封埃題: Cái gói cẩn thận đó ai đề tên vậy?

[199] Nương long thốn thức 娘竜寸式: Ngực phập phồng, hồi hộp. Gót giày dời chơn 𨃴𨃐移眞: Bỏ đi, không đứng gần Tử Trung nữa (để tránh bối rối).

[200] Hai câu: Nàng lo sợ nhớn nhác như chim lạc đàn, không biết lánh mình nơi đâu. Phi điểu thất quần 飛鳥失群: Chim bay lạc đàn. Lo sợ, thất thần không biết xử trí làm sao!

[201] Chưa tường nghĩa câu nầy.

[202] Má đào gởi thân 𦟐桃𠳚身: Đây không phải là trao thân gì hết, đây nàng Phỉ Nga nói: Để em xin thưa. Nhắc lại, thân, từ xưa có nghĩa là thưa thốt, nói với người trên trước, người mình kính trọng. Ở đây bản Nôm dùng chữ thân bằng hai cách 親,身 phải viết 呻mới dễ hiểu.

[203] Tuấn Khanh thú thiệt rằng mình thích Tử Trung nhưng đã trót nhận lời với Soạn Chi rồi.

[204] Bắn chim có chữ ứng huyền 𢏑𪀄固字應弦: Bắn chim bằng mũi tên có ghi chữ để làm bói ứng với dây cung. Dây cung đưa mũi tên đến ai thì lời tôi nguyền với người đó như là một sự bói chọn người.

[205] Để ý chữ hòa trong câu nầy, từ xưa hơi khó hiểu nên bản ĐGT sửa lại bằng chữ .

[206] Bốn câu: Ngụy Soạn bắt được tên và có trao cho tôi gói ngọc trang để làm tin đính hôn. Sách dạy một chồng đến chết mà thôi nếu không thì tôi có tiếc gì tấm thân nầy mà chẳng cho anh. Chữ chẳng tiếc tiện hình nầy dâu nghe rất xúc động.

[207] Bốn câu: Nghe anh nói lại cho rõ ràng: Khi xưa ở trường học chính anh được mũi tên đó. Đặng tên đầu thước 卭𠸜頭鵲: Được mũi tên dính trên đầu con chim thước.

[208] Hai câu: Đạo trời công bình thiệt tình, xưa đã là người đầu tiên bắt được tên, nay lại là người biết được em là gái. Rõ hình dong 訴形容: Biết được hình hài (là phái nữ).

[209] Hai câu: Sách dạy xuống tay trước thì thắng, em là ngọc quí anh bắt đặng rồi, còn cần gì ngọc đính hôn nữa!

[210] Bốn câu: Nàng bắt đưa ra những chữ trên mũi tên, chàng nói dễ dàng, chuyện nhỏ!

[211] Thiên bất hư lạc 千不虚落: Trời không cho tên nầy lạc mất. Phát tất ứng huyền 𤼵必應弦: Dây cung bắn ra thì ứng nghiệm. Phỉ Nga tự ký 蜚娥字記: Ký tên Phỉ Nga.

[212] Nhìn càn 𥚆乾: Nhận ẩu (vì anh ta chẳng phải là người đầu tiên bắt được tên).

[213] Rủi dun, dun rủi 撴𢩽: Bỗng đâu xui khiến, thúc bách, trời xui đất khiến. G. Hue giải nghĩa là bousculer, impulsion.

[214] Tưởng rằng cố hữu 想羅固友 ai hay duyên hài 埃咍緣諧: Ngỡ là bạn cũ đến thăm ai dè là cuộc tình chạy tới.

[215] Nguyên đoạn tả cảnh ái ân của nàng Phỉ Nga với Tử Trung nghe thanh nhã dầu nói chuyện chẳng thanh tao!

[216] Tủi thầm không đâu 𡀬抌空兜: Tủi thân là chẳng có gì. Không đâu 空兜: Chẳng có gì hết.

[217] Quá đẹp, trong đời không có. Lọt vòng nhân gian 律𡚶人間: Trong nhân gian không thể có.

[218] Cảnh tướng tiền quan 景相前官: Trước đây là tướng công họ Cảnh.

[219] Bản Nôm: Tôi làm chước đà từ hành 倅爫斫它辞行. Sai vị tri các chữ. Từ hành 辞行: Từ chối bỏ đi.

[220] Một tình khăng khăng 𠬛情康康: Nhứt quyết yêu, không chịu sự từ chối của tôi. Từ một 𠬛 trong văn xưa còn có nghĩa là quyết liệt, nhứt định.

[221] Hai câu: Lấy làm vật như là sính lễ để cưới thêm vợ cho chàng ta. Kết duyên chàng no đôi 結緣払妬堆: Cho anh ấy kết duyên đủ hai người. Chữ no 奴 là từ xưa có nghĩa là đầy, đủ. Rắp ranh 𢘮名: Tính toán làm chuyện gì. Ôn Như Hầu: Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ.

[222] Hai câu: Vì tôi đã trót hứa do chuyệnbói tên mà chàng ta bắt được. Phải làm như vậy thôi, biêt làm sao khác hơn?

[223] Hai câu: Số trời định hết cho nên tôi mới vào đây với chàng. Rủi dun, dun rủi 𢩽撴: bỗng đâu xua đẩy tới, thúc bách, trời xui đất khiến. G. Hue giải nghĩa là bousculer, impulsion.

[224] Chàng thương tôi thì tôi đã ở với chàng rồi nên tôi muốn đem Cảnh tiểu thơ về cho Ngụy Soạn Chi.

[225] Hai câu: Như là đem tôi mà đổi lấy Cảnh tiểu thơ cho họ Ngụy.

[226] Diệu thủ 妙手: Tay hay, tay khéo léo, nghĩa là nàng Phỉ Nga có kế hay.

[227] Hai câu: Quan Lại Bộ tra rồi, giờ ta coi việc xet trên cao hơn coi thể nào. Thượng tài上裁:cơ quan phán xét cấp cao.

[228] Hai câu: Tử TRugn vào đền vua thì thấy quan Lại Bộ vào tâu trình. Tấu tri 奏知: Tâu lên vua nói rõ sự tình.

[229] Thập niên làm kỳ 十年爫期: (Đày ở đó) thời hạn là mười năm.

[230] Hai câu: Những gì của quan Tham tướng họ Văn thì trả về cho ông ta.

[231] Phải chăng Binh Đạo trước được phong chức lớn nay bị cách.

[232] Hai câu: Soạn Chi nói mình bị thua cuộc, như kẻ chơi tổ tôm không hên, bài đã  tới thập thành là dễ ù mà ngồi im không ù, kẻ cầm bài khó ù, chân hai, mà lại quơ tiền vì ù lớn.

[233] Lâu lâu lại thấy  mấy câu văn kém: Dùng hai lần chữ xiết bao 掣包quá kề cận nhau.

[234] Nói mình không nề cực khổ tới kinh đô để nghe tin tức. Lần suối pha rừng 吝𣷮坡棱: Đi không ngại khó khăn, vượt qua suối, tuông pha trong rừng.  

[235] Hai câu: Có câu: Ngàn dặm thì cũng có lúc gặp nhau, cần gì phải mai mối. Lá thắm chỉ hồng 蘿𧺀紙紅chỉ chuyện mai mối cách nầy cách khác.

[236] Gặp hội kỳ phùng及会奇逢: Gặp gỡ lạ lùng.  Bản Nôm gặp một kỳ phùng, nghĩ là chữ gặp 及khắc lầm thành một 𠬛.

[237] Theo bản của ĐGT hai chữ cuối mấy ngày. Bản Nôm: trình người, khá tối nghĩa.

[238] Bản QN của ĐGT : Việc mình mình biết, hay hơn câu nầy.

[239] Để hở hòm ra 㡳許函𦋦: Để hòm không khóa hay không đậy nắp…

[240] Hàm ân 唅恩: Mang ơn (đã đem văn sớ khiếu nại đến Bộ Lại.)

[241] Thú chân tình 首眞情: Xin thú nhận tình thiệt của con. Bản Nôm viết thủ chân tình.

[242] Chẳng say hoa nguyệt 庄醝花月, chẳng khinh phép nhà 庒輕法茹: Mình không có tội vì chẳng phải ham trai gái hay quên lời gia giáo. (Chỉ vì hoàn cảnh thôi.)

[243] Tại trời xui ra 在𡗶吹𦋦: (Ông cụ không rầy mà tán thành là) chuyện nầy do trời định. Chữ tại 在bản khắc hơi lệch nét thành ra chữ chẳng 庒.

[244] Toan khi lận sòng 筭欺吝: Tính làm chuyện trí trá lừa gạt (không phải là người bắt được tên nhưng làm như mình là người bắt được đầu tiên). Lận sòng 吝崇: Ăn gian trong sòng cờ bạc. Cờ gian bạc lận. Ngày nay người ta nói sai thành lộn sòng.

[245] Chiếm đặng bảng Xuân 占邒榜春: Thi đậu trong kỳ thi mùa Xuân, tức kỳ thi Hội, lấy Tiến sĩ và Phó Bảng.

[246] Coi nhẹ bên tôi mà nặng bên người con gái…

[247] Tất lực 悉力 Hết sức, hết lòng.

[248] Có hay chăng chàng 固咍庒呈: Ông quan Tham tướng có biêt cùng chăng! Để ý chữ chàng dung cả cho người vắng mặt.

[249] Phiên giả không hiểu hai chữ này.

[250] Bốn câu nầy văn chương rất là lộn xộn. Chữ khá thương lập đi lập lại, cũng có thể là cho hay được khắc khác đi. Câu quan trọng là câu: Khá thương có một hai ngày rắp ranh 可倉固𠬛𠄩𣈜𢘮 vì tình cảm của Soạn Chi đã được để ý.

[251] Năm đã rõ ba 𠄼㐌訴𠀧: Học cùng nhau được ba năm.

[252] Anh cùng cạn chi 英穷件之: Anh vấn nạn đòi hỏi hoài mà làm gì! HTC: Cạn cùng ngành ngọn cho tường: Hỏi han, dò dẫn cho tiêm tất. Chữ cạn cùng, quá xưa và khó hiểu nên bản của ĐGT: Anh hòng làm chi, nghe ngô nghê.

[253] Nghĩa lan chi 義蘭芝: Nghĩ bạn bè thân thiết.

[254] Cả đoạn: Soạn Chi nghe kể lại chuyện về ‘nàng nữ Tuấn Khanh’ vuột khỏi tay mình thì bàng hoàng và bỏ ra về liền. Nhắc lại hề 兮, tức hề đồng, tiểu đồng.

[255] Giận rằng thác kế đàn bà  恨浪託計弹婆: Giận là đàn bà dùng kế (khiến mình bị thua trí.) Thác kế 託計: Mượn kế, dùng kế.

[256] Tìm lời trợ thẹn lấy bài 尋𠳒𦔳𠾺𥙩排: Tìm  lời gì đó bào chữa để đở mắc cở vì bị những chê trách, dè biểu. Chữ bài nầy là chữ khó nhứt trong câu, và cả trong quyển Nữ Tú Tài. Bài 排tức bài biếm: chọc ghẹo, ngạo, chê, dè bĩu. Bản ĐGT: Tìm lời chữa thẹn đỡ thời. Chữ đỡ thời không hay.

[257] Nói rằng mình không biết rõ lòng dạ của Tuấn Khanh.

[258] Than thầm xưa sau 嘆忱初娄: Than về những chuyện xảy ra từ đầu cho đến bây giờ. Xưa sau 初娄: Từ trước đến nay.

[259] Hai câu: Trách người ở bạc, không biết lòng mình chân tình. CÂu nầy đẹp ở chỗ đối bạc /vàng.

[260] Cả câu: May quá chừng.

[261] Cả đoạn: May quá, sẵn tôi cưới vợ mời anh vào nhà chơi…

[262] Hai câu: Mình coi như kẻ ngu si, hững hờ trước lời mới đó vì chẳng biết tính sao cho đúng. Đười ươi giữ ống 𤢬 * 字甕: Con lười ươi tưởng rằng bắt được người thợ săn khi cầm chắc hai tay anh, ai dè hai tay anh ta luồn trong hai  ống tre, anh rút tay ra lòn đi ra sau hại đười ươi. Thành ngữ nầy chỉ người ngu, bị bịp.  Hững hờ tính sao 口興 哬性哰: Nghe cho có, chẳng quyết định gì được. Chữ tính bản Nôm viết 口生, nghĩ là nhầm.

[263] Không quyết định được vì dự hay không đều có những vấn đề riêng.

[264] Hai câu: Không thèm suy nghĩ nữa, vị tình họ mà đi dự thôi. Nghĩ mà chi  麻之: Suy nghĩ làm gì cho mệt, chẳng ích lợi gì. Chữ nghĩ   chúng tôi đoán theo mạch văn và suy theo ý nghĩa toàn cảnh, bản Nôm viết cũng 拱.

[265] Tráp trầu 匣郎: Trong tiệc cưới khai trầu là thứ cần có để làm lễ tượng trưng cho lòng kính trọng cha mẹ hai bên và tình vợ chồng khăn khít. Bản Nôm tráp lang, đọc Nôm tráp trầu.

[266][266] Hai câu: Lạy cha rồi mới tiếp bạn (Ngụy Soạn Chi). Mạch lòng vân vi 脉𢚸云為: Nói tất cả chuyện lòng trong bao lâu nay.

[267] Ba ta nghĩa lan chi 𠀧些義蘭芝: Ba người mình là bạn thân.

[268] Có ý bẽ bàng 固意㤳傍: có sự cay đắng tủi nhục trong lòng. Bản Nôm có chi vui bàng 固志𢝙傍. Chữ chi có lẽ khắc lộn, chữ bẽ 㤳 giống với chữ vui 𢝙 nên bị lầm. 

[269] Lão đã hèn ngu 老野䝨愚: Tiếng tự khiêm rằng mình không biết nhiều, già, hèn hạ, ngu dốt, dân quê…

[270] Bấy nay 闭󰉔: Bấy giờ.

[271] Gởi một hai lời 𠳚𠬛𠄩𠳒: Thưa vài ba tiếng. Chữ một 𠬛khắc dư nét thành đầu 投.

[272] Tuổi tác hàn vi phiếm tài 歳作寒微泛才: Cũng giống như mấy từ lão dã hèn ngu ở trên. Phiếm tài泛才: Không có tài cán gì.

[273] Tú Tài học Văn秀才戶聞 : Đây nói Tuấn Khanh, Tuấn Khanh khai thiệt mình họ Văn. Những chỗ khác viết văn bằng  文, chữ văn nầy 聞chỉ là đồng âm không phải là chữ chỉ họ. Cũng nên nói thêm là trong văn bản nầy những chữ đồng âm được dùng lẫn lộn nhay cũng nhiều.

[274] Trở việc nghiêm quân 阻役嚴君: Mắc bận công việc lo cho cha (mắc nạn).

[275] Hai câu: Xin thưa thiệt như thế, nếu tôi còn con gái khác thì đâu có tiếc với ông.

[276] Tiên thi 箋詩: Bài thơ viết trên giấy hoa tiên, giấy quí.

[277] Vắng phong thanh cá nhàn 𣱵風声𩵜鴈: Không nghe tin tức (nhạn cá) gì, chẳng nghe nhắn nhe (phong thanh) gì.

[278] Hai câu: Ước mong gặp mặt Tuấn Khanh cho khỏi uổng công đợi chờ. Tiểu quan 小官đây là tiếng tâng bốc vì Tuấn Khanh chỉ là Tú Tài trơn.

[279] Quấy người thay 掛𠊛台: Chọc ghẹo nhau lắm thế. Bấy ông tơ 闭翁絲: Hỡi ông xe dây duyên nợ!

[280] Xe dây chểnh mảng 車𦀊整𠻵: Xe tơ kết duyên không chặc chịa (nên tình tôi bị khó khăn). Thẩn thờ niềm đơn 矧蜍念丹: (cho nên tôi giờ đây) một mình thờ thẩn nhớ mong.

[281] Hai câu: Dọa là sẽ tự tử nêu bị cưỡng bức lấy người khác, người mà mình chẳng biết gì.

[282] Bản Nôm sai vị trí hai chữ gởi hầu thành hầu gởi.

[283] Minh bạch thi bài 明白詩排: Nói cho rõ ràng chuyện bài thơ. Bản Nôm khắc dư nét chữ minh 明thành chữ mừng 𢜠.

[284] Trông lầm như thế vì Phỉ Nga lúc nầy là nàng Phỉ Nga thiệt sự, phưởng phất hình ảnh Tuấn Khanh ngày trước.

[285] Tác giả muốn viết giày 𩌂 nhưng dùng chữ dầy theo giọng Bắc 𠫆. Mấy chữ dầy/giầy/giày thông nhau trong cách viết Nôm.

[286] Câu nầy không hay vì điển tích bướm ong ở đây không hợp.

[287] Cả đoạn: ‘Nàng’ Tuấn Khanh nói chuyện ngày trước mình giả nam nhi đến đây….

[288] Tôi lấy chồng rồi, chồng là ông Trạng  tân khoa. Chữ trạng 状viêt sai net, khó đọc.

[289] Chàng thấy nàng Cảnh cũng hương sắc nên vừa ý.

[290] Chữ ngày, xem chú thích ở trên.

[291] Trá hình 詐形: Cải trang, làm cho hình dung khác đi. Bản Nôm chữ trá 詐khắc sai thành tỏ 訴.

[292] Có hình ?

[293] Lòng hòa mừng thay 𢚸和𢜠台: Lòng cùng mừng. Chữ hòa đây là từ cổ có nghĩa cùng, với. Nhiều khi ta có thể hiểu tương đương với nghĩa ngày nay là cũng.

[294] Phú ông 富翁mời Tử Trung qua dùng tiệc để giải quyết công việc. Bản Nôm khắc lạy ông 𥛉翁 nghĩ là khắc lầm chữ nọ xọ chữ kia thường có trong bản Nôm nhứt là các bản của Phật Trấn, người làm văn bản bên Chợ Lớn người khắc bản tuốt bên Việt Đông xa xôi…

[295] Hai câu: Cả đoàn chủ tớ thảnh thơi lên đường.

[296] Hai câu: Vui vì hai người đều có vợ đẹp.

[297] Nhiều người xin theo hai chàng làm vợ lẽ.

[298] Ca khong 歌啌: Ca tụng, khen tặng. Chữ khong 啌rất đáng quí khi hiện diện trong tác phẩm, khiến cho bản Ất Hợi Phật Trấn nầy có giá trị sử tính mà các bản Nôm khác chắc không có. Ba bản quốc ngữ thì không có chữ không quí giá nầy. ĐGT thay bằng chữ hả hê thì hai ông đi sau cứ thế mà theo. Bản Thành Thái hai chữ nầy là hê ha, cũng là từ mới cho nên ta càng có lý do để tin bản PT là xưa nhứt và những bản khắc/in sau thường là sửa lại bổn cũ, ăn theo.

[299] Tiệc mở đồi mồi 席𨷑玳瑁: Mở tiệc sang trọng (tô chén làm bằng thứ quí giá như vảy đồi mồi, như mấy thứ bát ngọc, bàn ngà, cam lê ở câu thơ trên…). Tưng bừng 熷𤇊: Chỉ sự vui vẻ của bữa tiệc lớn. Bản Nôm khắc ssai thành rõ rang 𤑟𤉜, không có nghĩa

[300] Các tùy kỳ tiện 各隨其便: Mỗi người giữ vật sở hữu của mình.

[301] Đưa mủi tên ngày xưa Phỉ Nga bắn ra làm duyên kỳ ngộ lại cho Tử Trung.

[302] Vang lừng 㘇㖫: Đây có nghĩa là vui mừng (tất cả đều vừa ý về cuộc tình duyên của mình).

[303] Cặp nào cũng tốt đôi, chồng thì đỗ đạt (khoa mục), vợ thì hiền thục (thục nhân) đẹp đẽ.

[304] Dầu thiệt đầu ngoa 油寔油訛: Có thiệt hay là do trí tưởng tượng của người đặt ra. Bản Nôm viết chữ quỷ 詭chỗ chữ ngoa 訛, dầu hai chữ cũng cùng nghĩa.  Dần dà: Từ từ.

[305] Bản quốc ngữ Đinh Gia Thuyết (1952) và hai bản quốc ngữ ăn theo (1960, không đề năm) còn thêm 8 câu nữa. Xin xem lời nói đầu.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng CSVN đang rối beng lên về tình trạng cán bộ tham nhũng quyền lực, nhưng lại đùn đẩy trách nhiệm cho nhau khiến dân te tua. Tình trạng này được báo của Trung ương đảng “vạch áo cho người xem lưng” cả trong hai lĩnh vực...
Số lượng người nhập cư trái phép vào Hoa Kỳ cao kỷ lục đang khiến cho hệ thống nhập cư vốn đã quá tải càng thêm phần căng thẳng. Dữ liệu mới đây của chính phủ cho thấy các viên chức biên phòng đã thực hiện 2.05 triệu vụ bắt giữ trong năm tài chánh kết thúc vào tháng 9. Đây là năm thứ hai liên tiếp mà số vụ bắt giữ như vậy cao hơn 2 triệu. Trong quá khứ, các con số tăng và giảm dựa trên những thay đổi quan trọng về kinh tế và chính sách, như các đợt suy thoái kinh tế và siết chặt biên giới trong thời kỳ đại dịch. Nhưng chưa bao giờ số vụ bắt giữ vượt quá 1.7 triệu, và cũng chưa bao giờ duy trì ở mức cao như vậy trong mấy năm liên tục.
Hai việc đang làm cho Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng mất ăn mất ngủ là “tình trạng xa rời Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” và “tham nhũng quyền lực” ngay trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ chống tham nhũng, thanh tra và thi hành kỷ luật...
Lúc còn tại thế, có lúc ông Phạm Văn Đồng đã phải đối diện với một câu hỏi khó: “Xin Thủ tướng cho biết ý kiến về sự kiện thuyền nhân hồi 1975, nhất là hồi 1978, 1979… Về nguyên nhân và trách nhiệm trong những sự kiện ấy, với những hiện tượng bán bãi thu vàng và khá nhiều tầu, thuyền bị hải tặc bão tố và chìm trong đại dương…
Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ báo cáo thường niên trước Quốc hội: Những diễn biến quân sự và an ninh liên quan đến Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc...
Tại sao chính sách Hoa Kỳ phải giúp đỡ những quốc gia khác, kể cả những quốc gia chống đối quyền lực của Hoa Kỳ? Có anh hàng xóm tức giận muốn qua đốt cháy nhà mình, mình lại đem tiền qua giúp đỡ; đôi khi lại mang con qua xây dựng hàng rào, chuồng gà, sơn quét nhà cửa cho anh ta. Chuyện thật ngược đời. Đảng Cộng Hòa nói: Không được. Đảng Dân Chủ nói: Được. Đáng giúp đỡ. Còn bạn, nghĩ sao? Ngày 18 tháng 10 năm 2023, Hãng thông tấn ABC News đưa tin: “Chính quyền Biden đang soạn thảo gói viện trợ nước ngoài trị giá 100 tỷ USD, bao gồm hỗ trợ cho Israel cũng như các ưu tiên an ninh hàng đầu khác.” Dự thảo này phải được quốc hội phê chuẩn. Chắc hẳn sẽ gặp khó khăn vì Đảng Cộng Hòa giữ đa số ở hạ viện. 100 tỷ là số tiền khá lớn, trong lập luận của đảng Cộng Hòa, tại sao không dùng số tiền này để phát triển kinh tế nước Mỹ? Xây dựng những công trình nội địa mang lợi ích đến cho người dân? Trong lập luận của đảng Dân Chủ, giúp người tức là tự giúp mình
Lại một lần nữa, cộng đồng tình báo quốc tế cho thấy khả năng dự báo hoàn toàn sai lạc khi nhận định rằng xung đột Trung Đông không có dấu hiệu leo thang trong khi chiến tranh Ukraine đang tiếp diễn. Nhưng Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu phạm phải sai lầm nghiêm trọng hơn khi thiếu chuẩn bị các biện pháp phòng thủ cần thiết, vì ông tin tưởng tuyệt đối ưu thế quân sự của 170.000 quân Do Thái so với 40.000 chiến binh Hamas. Chính ông Ehud Barak, cựu Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng Israel, cùng 80% dân chúng cũng đồng quan điểm, cho rằng Thủ tướng Netanyahu phải chịu trách nhiệm chính trị cho thảm hoạ hiện nay.
Thái độ chán học Mác và ngán nghe theo lời Bác dậy lan tràn trong sinh viên, học viên các trường Đảng đã làm cho tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong đảng tăng cao đe dọa sự tồn vong của chế độ...
Nhà báo Xuân Ba kể lại: “Đêm chuyển về sáng một ngày tháng tư năm một ngàn chín trăm tám tư, Vũ Bằng thều thào với Long kiếm cho ba cái điếu?! Trời đất, bệnh nặng vậy mà hút chi? Nhưng ông cứ kéo cái điếu về phía mình kéo một hơi rồi ho sặc sụa... Vũ Bằng sau hơi thuốc dim lim vẻ như khỏe lại? Nhưng rồi cứ lịm dần, lịm dần... Nhà văn Vũ Bằng trút hơi thở cuối cùng lúc bốn giờ ba mươi sáng. Vũ Bằng nghèo quá, túng quá! Tội vạ bất như bần!”
Cách đây hơn 100 năm, có một thanh niên, mới ngoài 20 tuổi, sinh tại Nghệ An đã tới Anh để tìm kế mưu sinh sau khi gia đình gặp hoạn nạn. Theo một nguồn tin chính thống của Hà Nội, đó là thanh niên có tên Nguyễn Tất Thành tới Luân Đôn bằng đường biển vào khoảng giữa năm 1914...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.