Bản Nôm nầy được khắc in ngày lành, tháng bảy (ta), năm Mậu Thân vào năm thứ 34 niên hiệu Quang Tự nhà Thanh tức năm 1908 DL.
Phí tổn khắc in do hai tín nữ thời đó là bà Nguyễn Từ Nguyên và bà Hoàng Diệu Trúc. Bản khắc thực hiện bên Trung quốc nên có những sai sót không thể tránh - chúng tôi khi phiên âm sẽ chỉ ra khi gặp - tuy nhiên đây là một bản văn Nôm đáng được phổ biến vì thể hiện được nhiều điều trong đó có niềm tin bình dân Việt Nam về Địa ngục về Thiên Đường và văn chương (rất lưu loát).
Câu chuyện có thể được coi như là sự trả lời của giới tu sĩ Phật giáo với giới Nho sĩ về lòng hiếu thảo của người quyêt chí xuất gia. Đây là bài học về ăn hiền ở lành, về lòng quyết tu, về đạo hiếu, rất cần thiết cho người đới bất cứ thời đại nào.
Đặc biệt những tình tiết trong tác phẩm nầy tuy mô phỏng từ tác phẩm Trung quốc Quan Âm Xuất Thế觀音出世, nhưng đã có sự khai triển rất trí tuệ của người sáng tác.
Chúng tôi nghĩ rằng tác phẩm nầy không phải thuần là tác phẩm của nhà chùa, mà còn là tác phẩm có giá trị của văn chương Việt Nam. (NVS & NHT)
Xin giới thiệu trang 3
[T3] 1 Đại
Khiến trong thiên hạ nhân gian thiện từ.
Muôn dân khoái lạc an cư[1],
Nhà no người đủ, dư muôn dư ngàn.
5 Còn người bần khổ cơ hàn,
Thiệt là[2] kiếp trước bạo tàn chẳng tu.
Cho nên thác xuống Diêm U,
Luân hồi lại thế, lao tù tân toan.
Mấy người đã giàu lại sang,
10 Thiệt là tiền thế thiện doan[3] trên đời.
Nên nay mới đặng thảnh thơi,
Vinh hoa phú quý ăn chơi thanh nhàn[4].
Tiết nầy nhơn quả rõ ràng[5],
Khuyên người chớ khá bạo tàn buông lung.
15 Làm người[6] cho biết thỉ chung,
Dữ thời xa lánh, hiếu trung noi làm.
Phật tiên xưa cũng người phàm,
Tỉnh thời là Phật, mê làm chúng sanh[7].
Thuở đời đại quốc trào Thanh,
20 Khang Hi bảo hiệu lưu hành chân kinh.
Mê đồ Tam giáo kính tin,
Diễn Quan Âm tích tường tri nhiệm mầu.
Mười sáu bổn nguyện làm[8] đầu,
Tế nhơn lợi vật đâu đâu gội[9] nhuần.
25 Những lời thiện báo[10] ác trừng,
Luận xem báo ứng rõ chưng[11] dữ lành.
Nhơn gian hỗn tạp đấu tranh,
Thế tình yêu chuộng lợi danh, sang giàu.
Quả nhơn[12] cũng có chậm mau,
30 Như hoa tàn vội[13], khác màu sâm si[14].
Công danh, cực lạc hữu thì,
Họa dâm, phước thiện, lạ chi, rõ ràng.
Thuở ấy Tôn Giả Từ Hàng,
Thiên cung đại hội tòa vàng tiêu diêu.
35 Khâm tuân[15] bát bửu nhạc thiều,
Thọ hưởng vô lượng, lòng nhiều chẳng an.
(còn tiếp)
[1] Khoái lạc, an cư 快樂安居: Sung sướng, yên ổn.
[2] Chữ Nôm là 罗khắc sai thành thăng 昇
[3] Thiện duyên 善緣 đọc theo âm Nam xưa.
[4] Ăn chơi thanh nhàn 咹𠶜清閒: chỉ sự thanh bình. N: Chơi viết 吱thường dùng để đọc chữ chê .
[5] BN khắc lộn vị trí: Nhơn tiết quả nầy rõ ràng. Người Tàu khắc nên chuyện nầy cũng không lạ.
[6] Người, khắc sai: 得Đắc. Tất cả chữ người 𠊚 đều bị khắc sai như thế nầy.
[7] Câu nầy thường thấy trong sách có khuynh hướng về đạo Phật.
[8] Làm 爫khắc sai thành đa 多.
[9] Gội 澮: Nôm sai thành cúi 𨆝 .
[10] Thiện báo善報: Làm điều thiện thì được báo ứng thiện. Bản Nôm là thiện duyên 善緣.Không hợp nghĩa.
[11] Chưng 徵từ cổ, từ đưa đẩy, không có nghĩa trong tiếng Việt đời nay. Nôm viết chưn 蹎nên khó đọc.
[12] Quả nhơn 果因, nói cách khác của sự thưởng, phạt.
[13] Tàn vội 残倍: Nôm kiểu Nam tàng bôi 藏杯, khó đọc vì ít người dùng, thiệt ra không sai.
[14] Sâm si 參差: xum xuê.
[15] Khâm tuân 欽遵: Vâng lời người trên. N khắc lầm thành kim tuân 金遵.