Hôm nay,  

Đảng Lao Động, Tư Tưởng HCM Có Gì Khác Cộng Sản?

30/09/201700:00:00(Xem: 7535)
Đảng Lao Động, Tư Tưởng HCM Có Gì Khác Cộng Sản
Nguyễn Thị Cỏ May
 

Chọn ngày 2/9, Giáo sư Tương Lai tuyên bố ly khai khỏi cái “đảng của Nguyễn Phú Trọng để tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên đảng Lao động Vìệt nam như ngày tuyên thệ vào hàng ngũ đảng của Hồ chí Minh”.

Ông còn nói rõ ông quyết định rút ra khỏi đảng cộng sản không hề là một quyết định nhất thời bởi những nhân tố ngẫu nhiên. Mà trước đây 15 năm, trong một tiểu luận chánh trị “Chân lý là cụ thể”, ông đã nghiêm chỉnh và thẳng thắn đề nghị cần trở lại với tên đảng là đảng Lao động Việt nam, tên nước là Việt nam Dân chủ Cộng hòa, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho lý luận phát triển của Việt nam. Trong tiểu luận, ông trình bày rõ “tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyển những thành tựu của trí tuệ loài người, …”.

Trong bản tuyên bố của Giáo sư Tương Lai phổ biến hôm 2/9/2017, có hai từ khóa trung tâm là “đảng Lao động” và “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cỏ May tôi sẽ có ý kiến về hai ý chánh này của Giáo sư Tương Lai.

Xin thưa ngay, Cỏ May tôi có ý kiến hoàn toàn không nhằm trả lời ông Tương Lai, mà chỉ nhằm tìm hiểu đảng Lao động và tư tưởng Hồ chí Minh là hai thứ gì mà Giáo sư Tương Lai, sau mấy chục năm ròng theo sát đảng cộng sản, nay bổng lên tiếng trở về với 2 thứ đó. Như một người con đi hoang nay giựt mình quay lại mái nhà tổ phụ. Cỏ May tôi sẽ nêu ý kiến, không dựa theo nhận định chủ quan của mình, mà theo kinh điển của Nhà nước Việt nam ấn hành.

Đảng Lao động

Ở các nước cộng sản, Đảng Lao động, thực chất, đều là đảng cộng sản. Riêng ở Việt nam, tháng 2/1951, Hồ Chí Minh họp Đại hội II ở xã Vinh quang, huyện Chiêm hóa, tỉnh Tuyên quang, đổi đảng Cộng sản thành đảng Lao động cho phù hợp với tên nước và tình hình, tuy lúc bấy giờ, đảng cộng sản đang trên đà phát triển mạnh. Chẳng những đổi tên đảng để dấu đi cái cộng sản mà các tổ chức ngoại vi đều mang những tên rất hiền hòa, chứa chan tình yêu nước, như Mặt trận Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Mặt trận Tổ quốc, … Trước đó, Staline cũng cho ra đời Mặt trận Dân chủ nhơn dân, …

Tại Đại hội II, trong bài diễn văn khai mạc, Tôn Đức Thắng cổ xúy vai trò kháng chiến giành độc lập... Riêng Hồ Chí Minh, ông đọc báo cáo do Trường Chinh soạn “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Và cũng từ đây, đảng cộng sản chánh thức đổi ra thành “Đảng Lao động”. Nhưng đảng vẫn khẳng định “đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn và chuẩn bị những tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi kháng chiến thành công”. Ngoài ra, đảng còn xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một đảng cộng sản riêng. Và sau này, Trung Uơng Cục Miền nam đặc trách luôn cộng sản ở Miên.

Đối tượng của cách mạng cộng sản ở Việt nam, theo chính cương của đảng Lao động, là thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ, xác định nhiệm vụ cơ bản hiện thời của cách mạng là đánh đuổi xâm lược, làm cho Vìệt nam hoàn toàn độc lập, thống nhứt, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhơn dân, gây cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc cách mạng dân chủ nhơn dân, nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm cả 2 nhiệm vụ phản đế và giải phóng, cách mạng do nhơn dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội trải qua một thời gian dài gồm 3 giai đoạn, kế tục nhau và quan hệ mật thiết: kháng chiến tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước Dân chủ nhơn dân, cải cách ruộng đất triệt để, phát triển nông nghiệp, công nghiệp dưới hình thức hợp tác hóa, kỹ nghệ hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh đảng Lao động xác định mục đích, tôn chỉ, nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhơn dân đến thắng lợi và nhiệm vụ xây dựng đảng là đảng của giai cấp công nhơn và nhơn dân lao động, dựa trên nền tảng chủ nghĩa mác-lê nin theo nguyên tắc tập trung dân chủ, sau cùng là chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản.

Trường Chinh từng chỉ dạy đảng viên “Chiến tranh giải phóng Việt nam là một bộ phận của chiến lược giải phóng toàn thế giới theo cộng sản”.

Như vậy đảng Lao động chỉ là một tên gọi mới vì thực chất không gì khác hơn là đảng cộng sản, một bộ phận của Quốc tế cộng sản.

Người gia nhập đảng Lao động nay trở về với đảng Lao động thì vẫn là cộng sản!

Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?

Khi đảng cộng sản Hà nội từ năm 1991, Đại hội VII (6/1991), đưa ra cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” là một cách bắt chước rập khuôn theo Tàu. Ở đây, họ đề cao tư tưởng Mao Trạch-đông. Thực chất là Hà nội theo Tàu, nhưng khi nói tư tưởng Hồ chí Minh, người cộng sản muốn tô điểm cho Hồ Chí Minh chút son phấn “bản sắc dân tộc” vì khối cộng sản Liên xô và đông Âu sụp đổ sạch trơn.


Khi nói “tư tưởng Hồ Chí Minh”, đảng cộng sản choàng cho ông cái “tư tưởng” giả tạo vì chính ông đã từng nói «Tôi không có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa mác-lê cả». Vì đã lỡ nghe nói tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thử tìm hiểu coi đó là gì?

Về mặt chánh trị, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự đề cao Mao và Staline của ông ở Đại hội II, tức lúc thành lập đảng Lao động. Quan điểm của Staline mà Hồ chí Minh vô cùng tâm đắc là “Đảng cộng sản là công cụ của chuyên chính vô sản” và “chuyên chính vô sản, về thực chất, được thay thế bởi chuyên chính của đảng cộng sản”. Hơn nữa, trong thực tế, chuyên chính của đảng cộng sản là chuyên chính của một người, tức của Tổng Bí thư đảng. Boris Souvarine từng khen ngợi Hồ Chí Minh là đệ tử tuyệt trần của Staline.

Còn Mao ảnh hưởng Hồ Chí Minh, thì tưởng không có gì rõ hơn là lời Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội II “Cách mạng Việt nam phải học nhiều của cách mạng Trung quốc. Kinh nghiệm và tư tưởng Mao Trạch-đông đã giúp chúng tôi hiểu thấu hơn học thuyết mác-anghen-lênin-stalin. Những người cách mạng Việt nam phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn Mao Trạch-đông về sự cống hiến to lớn đó”.

Và cũng tại Đại hội II này, Hồ chí Minh tuyên bố “Ai đó thì có thể sai, chớ đồng chí Staline và đồng chí Mao trạch-đông thì không thể nào sai đưọc”. Có thể còn sự sùng bái nào hơn được?

Theo Phạm văn Đồng, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có 5 yếu tố chủ yếu: “chủ nghĩa mác-lê, sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản, chuyên chính vô sản, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế vô sản”.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định “chủ nghĩa mác-lê là học tuyết đúng đắn nhứt, cách mạng nhứt, là kim chỉ nam cho hành động” của người cách mạng.

Người cộng sản vẫn khẳng định rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là một sự vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa mác-lê vào điều kiện cụ thể của nước ta”, nhưng trong thực tế, từ xưa nay, họ chỉ biết áp dụng rập khuôn, một cách máy móc kinh nghìệm của Liên-xô và Trung quốc mà không quan tâm tới hoàn cảnh cụ thể của Việt nam nên gây ra hậu quả vô cùng thảm hại như cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo tư sản, chánh sách kinh tế mới, …

Ngoài ra, khi ở Nga, Staline thanh trừng Trostky, ở Vìệt nam, Hồ Chí Minh cũng nhiệt tình hưởng ứng, đi lùng tìêu diêt nhóm Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm, Hồ văn Ngà, Trần văn Thạch,… mà Hồ Chí Minh gọi “đàn chó trốt-kít, bọn phản động, gián điệp, tay sai đế quốc, những kẻ đầu trâu mặt ngựa, những kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ, …”

Trả lời ký giả Pháp Daniel Guéri về cái chết của Tạ Thu Thâu bị Việt minh giết ở Quảng ngãi, Hồ Chí Minh nói “Ông ấy là người yêu nước vĩ đại, và tôi thương xót ông ấy». Nhưng lập tức, Hồ Chí Minh thay đổi thái độ, với một giọng nói đanh thép, tiếp “Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều bị tôi thanh toán hết”.

Về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh cũng chủ trương tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, tức xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tề gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhứt, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Và Hồ Chí Minh còn nói thêm “Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, Nhà nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên, tạo nền tảng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa”.

Một đảng viên cao cấp cộng sản sau này phê phán “Vào giai đoạn trước đổi mới, đảng cộng sản đã phạm sai lầm rập khuôn theo mô hình cứng ngắc của Mao và Staline về chủ nghĩa xã hội, thuần nhứt kinh tế xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể, thủ tiêu các thành phần khác. Sai lầm lớn này đã kéo dài khá lâu làm cho chúng ta đã phải trả cái giá quá đắt”.

Đảng Lao động, về thực chất, không gì khác hơn là đảng cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn là chủ nghĩa mác-lê và tư tưởng Mao Trạch-đông mà ông học được. Ở Hồ Chí Minh không có bản sắc dân tộc. Trên báo Thanh Niên phát hành tại Quảng châu, số  22/12/1926, Hồ Chí Minh nói rõ quan điểm của ông về Tổ quốc “Cái danh từ Tổ quốc là do các chánh trị gia đặt ra để đè đầu nhơn dân, để buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có Tổ quốc, cũng chẳng có biên giới …”.

Vậy người cộng sản nào muốn trở về với đảng Lao động, với tư tưởng Hồ Chí Minh, thiết nghĩ không có gì khác hơn là ở lại với cái đảng của Nguyễn Phú Trọng vì Nguyễn Phú Trọng là người cộng sản ưu tú, biết lý luận, dám hi sanh thêm vài năm nữa, tiếp tục làm Tổng Bí Thư và làm luôn Chủ tịch nước để phục vụ tốt hơn đảng, nhơn dân.

Người trí thức đúng nghĩa, yêu nước thật lòng, chỉ có thật sự từ bỏ cộng sản, trở về với nhơn dân. Nếu không thì nên im lặng khép mình dưới trướng của Nguyễn Phú Trọng để khỏi mất bổng lộc lớn.

Nguyễn Thị Cỏ May

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.