Hôm nay,  

Hoa Kỳ Đã Can Thiệp Cho 660,000 Công Dân Bị Cưỡng Đoạt Tài Sản Ở 43 Nước; Các Loại Hồ Sơ Của Người Mỹ Gốc Việt Có Thể Được Hoa Kỳ Can Thiệp

20/09/201700:00:00(Xem: 15057)

Hoa Kỳ Đã Can Thiệp Cho 660,000 Công Dân Bị Cưỡng Đoạt Tài Sản Ở 43 Nước; Các Loại Hồ Sơ Của Người Mỹ Gốc Việt Có Thể Đư
Ts. Nguyễn Đình Thắng
 

Khi công dân Mỹ bị một chính quyền ngoại quốc cưỡng đoạt tài sản, họ có thể được Uỷ Hội FCSC can thiệp nếu có yêu cầu của Ngoại Trưởng hoặc Quốc Hội Hoa Kỳ. FCSC là viết tắt của Foreign Claims Settlement Commission, tạm dịch là Uỷ Hội Giải Quyết Các Đòi Hỏi Bồi Thường Ngoại Quốc, đặt dưới Bộ Tư Pháp. Uỷ Hội FCSC chỉ giải quyết các trường hợp đã là công dân Hoa Kỳ vào thời điểm tài sản bị cưỡng đoạt. Đến nay họ đã giải quyết 660,000 hồ sơ của công dân Mỹ đòi hỏi 43 quốc gia, trong đó có Việt Nam, bồi thường tài sản.

Theo nghiên cứu của chúng tôi, ít ra vài chục nghìn và có thể lên đến cả trăm nghìn hồ sơ của người Mỹ gốc Việt nằm trong phạm vi giải quyết của Uỷ Hội FCSC. Các hồ sơ này thuộc 3 thành phần sau đây.

Thành phần 1: Nhà, đất bị cưỡng chế theo Luật Đất 2003

Luật Đất 2003 cho phép chính quyền cưỡng chế đất của dân. Khi thực hiện cưỡng chế, các chính quyền địa phương hay tỉnh thành đã xâm phạm tài sản của công dân Hoa Kỳ. Lấy Giáo Xứ Cồn Dầu làm ví dụ. Năm 2010 chính quyền thành phố Đà Nẵng ra lệnh cưỡng chế toàn bộ 110 mẫu đất của xứ đạo Công Giáo này; họ không ngờ là ít ra 20 trường hợp công dân Mỹ có tài sản trong vùng bị cưỡng chế, được phân loại như sau:

(a)     Khi bỏ nước ra đi, họ để lại nhà, đất cho thân nhân sử dụng, nhưng chưa bao giờ chuyển giao quyền sở hữu; họ đã trở thành công dân Mỹ trước năm 2010;

(b)    Họ sống ở Mỹ và có quốc tịch Mỹ từ lâu, và đã thừa kế nhà đất ở Cồn Dầu khi cha mẹ qua đời.

Cồn Dầu không là ngoại lệ; chắc chắn nhiều vùng đất bị cưỡng chế khác cũng có tài sản của công dân Hoa Kỳ lọt ở trong đó.

Một số cơ sở tôn giáo bị chính quyền cưỡng đoạt cũng là tài sản của công dân Hoa Kỳ. Có những nhà nguyện, những thánh thất, những đạo tràng, những độc giảng đường, những cơ sở hội thánh… do thí chủ xây cất cho đồng đạo sử dụng. Họ định cư và trở thành công dân Mỹ, nhưng vẫn giữ quyền sở hữu trên cơ sở tôn giáo để lại ở Việt Nam. Khi chính quyền địa phương cưỡng đoạt các cơ sở tôn giáo ấy, họ đã xâm phạm tài sản của công dân Hoa Kỳ.

Thành phần 2: Nhà, đất của người di tản năm 1975 hay bỏ nước ra đi sau đó

Khoảng 130,000 người Việt đã di tản trong những ngày cuối của cuộc chiến. Họ được Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ vớt. Sau một thời gian tạm trú ở đảo Guam, họ được nhận định cư tị nạn và rồi trở thành công dân Hoa Kỳ. Những năm sau đó, khoảng nửa triệu người vượt biên tìm tự do đã định cư ở Hoa Kỳ. Tiếp theo là những người ra đi theo chương trình đoàn tụ gia đình, chương trình HO, chương trình định cư con lai, chương trình ROVR... Khi ra đi, họ bỏ trống nhà, đất; chính quyền địa phương đã quản lý các bất động sản “vắng chủ” ấy. Cũng có những trường hợp đi chính thức, chủ nhân phải “giao” nhà, đất cho chính quyền địa phương quản lý.

Quản lý không có nghĩa là tịch thu hay quốc hữu hoá, mà chỉ là trông nom tạm thời; các văn bản của chính quyền lúc ấy ghi rõ là “khi người chủ về, nhà nước sẽ giải quyết với họ”.

Mãi đến tháng 10 năm 1991, qua Quyết Định 297/QĐ-CT, nhà nước cộng sản mới có chính sách quốc hữu hoá nhà, đất mà họ đang quản lý. Lúc ấy 250,000 người Việt tị nạn đã có quốc tịch Hoa Kỳ, tương đương khoảng 60,000 hộ gia đình; nếu chỉ 10% trong số này để lại tài sản “vắng chủ”, thì cũng đã có 6,000 hồ sơ đủ tiêu chuẩn để FCSC giải quyết.

Con số hội đủ tiêu chuẩn của Uỷ Hội FCSC thực ra nhiều hơn nhiều vì chính phủ Việt Nam lúc ấy không ấn định thời hạn thi hành Quyết Định 297/QĐ-CT, và các giới chức địa phương lơ là việc hoàn tất thủ tục “xung công” các nhà, đất mà họ đang chiếm dụng. Trong số hồ sơ mà chúng tôi có trong tay, một tỉ lệ khá lớn thuộc loại “bị lơ là” như vậy.

Nhằm giải quyết tình trạng lùng bùng ấy để thu hút các công ty ngoại quốc đến Việt Nam hoạt động, năm 2003 Quốc Hội Việt Nam ban hành Nghị Quyết 23/2003/QH11 để “hoàn thành thủ tục pháp lý về sở hữu toàn dân đối với các loại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng”.  Ngày 10 tháng 10, 2005 chính phủ ra nghị định hướng dẫn thực hiện, ấn định ngày 1 tháng 7, 2009 là thời hạn hoàn tất việc quốc hữu hoá. Trong khoảng thời gian từ 2005 đến 2009, số người Việt có quốc tịch Hoa Kỳ đã tăng từ 800,000 lên trên 1,000,000. Với con số trung bình là 4 người một hộ, và chỉ 10% số hộ là có tài sản bị tịch thu sau khi người chủ hộ đã có quốc tịch Hoa Kỳ thì số hồ sơ nằm trong tiêu chuẩn của Uỷ Hội FCSC là từ 20,000 đến 25,000. Đây là con số rất “nhẹ tay”. Con số thực có thể nhiều lần hơn, lên đến cả trăm nghìn.

Thành phần 3: Nhà, đất của những người di cư năm 1954

Những công dân Hoa Kỳ gốc Việt mà gia đình di cư vào Nam năm 1954 và để lại nhà, đất ở ngoài Bắc phần lớn cũng có thể hội đủ tiêu chuẩn để được Uỷ Hội FCSC can thiệp. Những người di cư năm 1954 ra đi hợp pháp dưới sự bảo trợ của quốc tế. Theo Hiệp Định Geneva, họ tạm thời lánh nạn ở miền Nam để chờ tổng tuyển cử 2 năm sau đó thì sẽ trở về quê hương. Tổng tuyển cử đã không xảy ra, và chiến tranh không cho phép họ hồi hương. Khi cuộc chiến tàn, nhiều người Bắc di cư năm 1954 đã đến Hoa Kỳ định cư và rồi trở thành công dân Hoa Kỳ.

Nhà, đất của họ (hoặc của cha mẹ, ông bà họ) để lại ở miền Bắc không bị tịch thu mà được xử lý theo Quyết Định 297/QĐ-CT (năm 1991) và Nghị Quyết 23/2003/QH11 (năm 2003), giống như đã trình bày ở trên đối với nhà, đất “vắng chủ” ở miền Nam. Các tài sản để lại ở miền Bắc này có thể lên đến nhiều chục nghìn.

Kết luận

Theo Quyết Định 111/CP của chính phủ năm 1977, chỉ có 2 thành phần bất động sản bị tịch thu:

(a)      “tài sản của nước trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam, của ngoại kiều trực tiếp phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, và của nước ngoài đã được sử dụng vào mục đích của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.”

(b)    “nhà cho thuê của tư sản mại bản, của địa chủ, của tư sản gian thương lớn, của những người phạm tội nặng về chính trị và kinh tế của các tổ chức phản động”.

Năm 1980 Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành luật HR 5737, chỉ định Uỷ Hội FCSC can thiệp cho những công dân Hoa Kỳ bị tịch thu tài sản trong nhóm (a). Năm 1995, nhà nước Việt Nam chấp nhận bồi thường 208 triệu Mỹ Kim cho 192 hồ sơ, điều kiện để thiết lập bang giao với Hoa Kỳ. Luật này không bao gồm các hồ sơ tài sản của người Việt tị nạn hay di dân sau cuộc chiến. Chương Trình Đòi Tài Sản của BPSOS sẽ vận động để Uỷ Hội FCSC mở hồ sơ cho nhiều chục nghìn người Mỹ gốc Việt.

Song song, chúng tôi sẽ thực hiện giải pháp kiện ra toà án, đã được giải thích trong một bài trước, đối với nhiều hồ sơ của công dân Hoa Kỳ bị mất tài sản, nhưng chưa có quốc tịch vào thời điểm tài sản bị cưỡng đoạt. Đó là trường hợp các giáo dân Cồn Dầu phải chạy sang Thái Lan lánh nạn, rồi sau đó đến Hoa Kỳ định cư và giờ đây đã có quốc tịch Hoa Kỳ. Khi nhà, đất của họ bị cưỡng chế bởi chính quyền Thành Phố Đà Nẵng, họ còn ở Việt Nam hay còn đang lánh nạn ở Thái Lan và dĩ nhiên chưa có quốc tịch Hoa Kỳ.

Chọn con đường nào?

Nếu đã là công dân Hoa Kỳ khi tài sản bị cưỡng đoạt thì khổ chủ có thể dùng hoặc con đường toà án hoặc con đường Uỷ Hội FCSC. Những công dân Hoa Kỳ chưa nhập tịch khi tài sản bị cưỡng đoạt thì chỉ có thể dùng con đường toà án (với một số điều kiện đính kèm). Chúng tôi sẽ phải nghiên cứu từng hồ sơ để thẩm định con đường nào phù hợp nhất. Chương trình Đòi Tài Sản còn con đường thứ ba, dành cho những hồ sơ không thể áp dụng 2 con đường kể trên, sẽ được giải thích trong một bài sau.

Chúng tôi đã khởi động cả 3 con đường kể trên từ đầu tháng 6 năm nay. Cách làm của chúng tôi là dùng luật pháp và hệ thống chính trị Hoa Kỳ để bảo vệ tài sản của công dân Hoa Kỳ, bất chấp thái độ, luật pháp và chính sách của chế độ ở Việt Nam.

Các thông tin về Chương Trình Đòi Tài Sản được lưu trữ tại: http://www.doitaisan.org. Nếu cần thêm thông tin, xin liên lạc taisan@bpsos.org hoặc 703-538-2190.


Ngày 19 tháng 9, 2017
 
http://machsongmedia.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.