Hôm nay,  

Nguy Hiểm Của Cầu Hồn Nhập Xác!

9/15/201700:00:00(View: 11079)
Nguy Hiểm Của Cầu Hồn Nhập Xác
Phương Chính Nguyễn Quang Đạt
 

Trước khi đi sâu vào đề tài này, chúng ta cũng nên tìm hiểu về thế giới của linh/vong hồn như thế nào?

Nói về vong hồn mà thế gian thường gọi là ma quỷ thì thường có một số phản biện cho rằng thế giới đó không có thật và vì không có thật nên làm gì có chuyện hồn về nhập xác!

Có vong linh hay không có vong linh sau khi chết?  Đó một đề tài rất nan giải và còn tùy theo niềm tin của mỗi người được giảng dạy qua tôn giáo đang theo.  Tin có cũng được mà tin không cũng tốt, tùy duyên phải không quí vị?  Chính ngay cả phật giáo cũng phủ nhận vấn đề tồn tại của vong linh/ma sau khi chết, mà chỉ đề cập đến sự tồn tại của Thân Trung Ấm hay cũng còn được gọi là Thân Trung Hữu trong giai đọan thần thức (1 trong 5 uẩn) rời khỏi thân xác sau khi chết để chuẩn bị đi vào 6 cõi luân hồi tùy theo nghiệp quả.  Tuy nhiên nếu quí vị có lưu ý đến lãnh vực này thì hầu hết các chùa chiền trong nước cũng như ngoài nước hầu như cũng đã có một vài lần trợ giúp chúng sinh hóa giải hiện tượng ma nhập.  Riêng chùa Liên Hoa tại Orange County thì người viết biết Thầy Thích Chân Thành cũng đã giúp cho một số người bị vong theo, cũng giống như sư Tịnh Đức ở chùa Pháp Vân (nay sư cư ngụ tại Texas) với biết bao trường hợp.  Trong nước thì sư Thích Giác Hạnh cũng đã từng tiếp xúc giúp đở biết bao vong linh được siêu thoát (có thể tìm hiểu thêm trên youtube về HT Thích Giác Hạnh) và còn rất nhiều nơi khác nhất là ở những tông phái mật tông.

Theo Phật giáo thì con người sau khi chết sẽ tùy theo nghiệp quả mà tái sinh vào 1 trong 6 cõi: trời, người, atula, ngạ quỷ, súc sinh và địa ngục.

Thế thì tại sao còn xót lại những vong linh không siêu thoát trên thế gian?

Những vong linh đó đa số được biết đến như những vong thai nhi do bị phá thai, giết hại trước khi chào đời, những vong này với lòng đầy oán hận luôn quanh quẩn bên người mẹ để tìm cách trả thù, làm cho cuộc sống người mẹ trở nên khốn khổ và mang những chứng bệnh nan y?  Riêng đối với trường hợp do hư thai cũng không hiểu sao một số vong nhi cũng không siêu thoát và cũng luôn quanh quẩn bên người mẹ?

Cũng có những vong linh do bị giết chết oan ức hoặc chết một cách thảm khốc do tai nạn, chiến tranh gây ra khiến luôn mang cảm giác đau đớn (bởi cảm thọ) khiến họ không thể siêu thoát và phải sống lang thang trên thế gian chờ cơ hội trả thù hoặc mong gặp được duyên siêu độ.  Làm sao có thể giải thích những hiện tượng này? Có lời giải thích cho rằng đó là do mạng số nơi dương thế chưa hết nên phải chờ cho mãn phần?

 Ngoài ra một số vong linh còn cho biết rằng luật của âm giới như thiên la địa võng luôn được kiểm soát rất gắt gao khó một ai thoát khỏi!  Như vậy một số ít trường hợp nêu trên ắt đã được sự chấp thuận của chư vị bên cõi giới vô hình để khuyến cáo người đời và cho biết rằng ngoài thế giới dương gian đang hiện hữu cũng còn có một thế giới khác bên cạnh hòng tránh xa điều ác.

Trong khi còn đang thắc mắc làm sao có thể giải đáp thêm về hiện tượng này một cách tương đối và có thể chấp nhận được thì “được ý” đọc kỹ lại đề mục “Thiên Đàng & Địa Ngục” và “Quỷ Ma Là Gì?” trong quyển Đại Thừa Chơn Giáo của Đạo Cao Đài, phần điển của đức Cao Đài Thượng Đế (có lẽ được phép viết?).  Nhận thấy lời giảng rất có ý nghĩa nên xin chia sẻ với quí độc giả để cùng nhau tham khảo để có thêm một khái niệm khác về thế giới linh hồn & ma quỷ.  Có hiểu thấu đáo thì mới có sự suy nghỉ sáng suốt và hành động chính chắn hơn trong vấn đề “cầu hồn nhập xác”.

“Hễ cái tâm sáng suốt, thiện từ, Đạo-đức là Thiên-Đàng, còn tâm mê-muội, vạy tà, hung bạo là Địa-Ngục.  Vậy thì Địa- Ngục, Thiên-Đàng cũng chỉ tại "Tâm".                    Theo thế thường các con hiểu, thì Thiên-Đàng là cảnh tuyệt mù trên cõi hư vô, là nơi cực kỳ tráng lệ, tinh xảo an vui, còn Địa-Ngục là ở dưới Đất.                                      Nếu các con cho Địa-Ngục là ở dưới đất thì lầm lắm.  Trong trung tâm trái Đất chỉ toàn là lửa không, còn bốn phương thì phân ra gió, mưa, nóng, lạnh.  Vã trong Vũ-Trụ này có biết bảo nhiêu là quả địa cầu, những quả khinh thanh thì vượt nổi lên trên mà hưởng lấy khí dương rất đổi nhẹ nhàng, sáng suốt, còn những trái trọng trược thì lặn chìm xuống dưới mà bị lấy khí âm rất nên đen tối, u minh.                                                   Vậy nếu các con, hoặc đã phạm tội với Trời, hoặc mang đại ác với người, thì linh-hồn tất phải bị đọa xuống nơi mấy quả địa cầu mà âm khí nặng nề, khốn nạn ấy để chịu buồn rầu, khổ cực, nhức nhối tâm hồn, xốn xãng trí não.  Đó là nhơn quả, nghiệp chướng, oan gia của các con đã tạo gieo, nó theo các con mà hành phạt lấy các con chớ không có cưa xẻ, trừng trị như theo các con hiểu lầm của người ta thường gọi là Thập-Điện Diêm-Vương đâu.  Những cõi ấy mà linh hồn nào rủi ro bị đọa lạc vào thì càng ngày càng thêm mê muội, tối tăm mãi mãi.  Ôi! Khốn khổ biết bao! Thầy khó tả ra cho hết những sự đọa đày trả quả của các linh hồn phạm tội phải cảm chịu trong mấy cõi ấy.                                    Cõi ấy là chi! Là cõi Diêm Phù, mà bên đạo Phật thường gọi là  m Ty hay miền Địa Ngục. Những cõi Diêm Phù tuy là nơi các linh hồn phạm tội phải chịu khốn nguy hành phạt đũ điều, thế mà đối với lũ quỷ ma thì những hồn bị đọa ấy lại còn hữu phước, hơn chúng nó nữa.  Vì sao vậy? Quỷ Ma Là Gì? Vì con người hễ khi làm mất hết chơn dương thì tất phải thuần âm, mà người đã thuần âm tuyệt dương là tất phải chết, mà chết như vậy thì tất phải làm ma làm quỷ, chớ không được nhập vào thế giới nào mà an nghỉ hết, dẫu thế giới ấy là nơi Diêm Phù cũng vậy.

Đã không được nhập vào thế giới nào thì lũ quỷ ma ấy chỉ phải nương tựa gió mây mà chờ ngày bị tiêu diệt thôi.

Vả không nhập được vào thế giới nào được thì cũng chỉ tại chúng nó đã làm cho tiêu mất cả phần chơn dương của chúng nó rồi.  Chớ như các linh hồn phạm tội, tuy vậy chớ còn ít chơn dương nên còn nhập vô cõi Diêm Phù để chịu hình phạt được, mà hễ còn chơn dương thì lại còn mong mỏi có ngày sẽ đầu thai trở lại thế gian được nữa.  Bởi vậy tuy thọ hình trả quả nơi Diêm Phù mà còn có phước hơn là làm ma làm quỷ.

Còn linh-hồn nào trong sạch thì đặng nhập vào cõi hư linh hay là đặng chung lộn với người trên dương-khí mà lo giúp đỡ cho thế gian chờ ngày đoái công thục tội, hay là học thêm cho tấn-hóa đến cảnh trí huệ quang minh.  Lại khi các con đã bỏ xác phàm thì linh-hồn xuất ra về trú tại miền Trung-Giới, nơi chốn Hư-Linh, chờ ngày các con phải đến tại trước Tòa Phán Xét mà chịu lãnh những tội tình, đi đầu thai trả quả...

Tại sao có quỷ có ma?

Quỷ ma trước bởi người ta tội nhiều.

Chết rồi mới hóa tinh yêu,

Không nơi nương dựa máng điều tai ương.

Thân người thì bán âm dương,

Có trong có đục, Đạo thường chuyển xây.



Thuần dương thì đặng cao thâm trở về.

Còn người nào mắc tánh mê,

Cả đem âm khí nặng nề vào trong.

Tinh thần tiêu tán không xong,

Khí dương đã tuyệt khó mong sống đời.

Nên chi hồn xác rả rời,

Tại chung làm mất khí Trời muội hôn.

 m thần thành quỷ âm hồn,

Thành ma khuấy phá làm khôn với đời.

Dựa vào đồng cốt gạt chơi,


Xưng cô, xưng cậu dối đời kiếm ăn.

Độc hung bắt buộc lăng xăng,

Những người mê tín nghe xằng thì tin.

Chọc người ghẹo chúng sợ kinh,

Nương theo mây gió ẩn mình lánh tai.

Sao mà chẵng chịu đầu thai?

Đầu thai đâu đặng, Như Lai mất rồi!”

(Hết trích)

Qua những đoạn văn trên hy vọng quí độc giả cũng đã có một số nhận thức về thế giới vong linh dẫu biết rằng những điều đó cũng chưa giải thích hết hoàn toàn những gì chúng ta muốn biết.  Vậy thì những vong linh còn tại thế nếu không là ma quỷ (thuần âm) thì đều là những vong linh không siêu thoát vì còn nặng luyến ái, hay bị oan ức chờ dịp trả thù oán nghiệp…

Nếu như chúng ta cầu hồn thân nhân với cái chết bệnh thông thường về nhập xác thì xác xuất của người thân là bao nhiêu? Trong khi đó thì số lượng oan hồn không nơi nương tựa cũng như ma quỷ đầy dẫy khắp nơi!

Về cách thức cầu hồn thì những tông phái hoạt động trong lãnh vực này đều có những phương pháp khác nhau.  Thông thường trong dân gian được biết đến nhiều nhất qua hiện tượng đồng cốt (thật giả khó biết tuy nhiên trong trường hợp thật thì dầu sao cũng ít bị nguy hiểm hơn cho người cầu).  Có tông phái thì dùng lá phép (linh phù) cầu vong, vong không về qua đồng tử mà qua thân nhân người cầu, có tông phái thì dùng chú…Xưa kia người viết được một sư huynh khuyến khích thực hiện thử cho biết ra sao ở nhà một người quen, nên đã có đôi lần thử dùng Đại Chú Chuẩn Đề để giúp một vài gia đình triệu hồn người thân và cũng rất linh nghiệm và linh động (chỉ muốn thử cho biết sự ứng nghiệm ra sao thôi rồi chấm dứt).  Điều đó chứng tỏ rằng khi được phép của chư vị thì có thể dùng bất cứ một hình thức nào.

Khoảng 30 năm về trước, lúc còn đam mê trong lãnh vực nghiên cứu về thế giới huyền bí, người viết cũng đã có duyên chứng kiến không biết bao nhiêu trường hợp triệu hồn cúng vong, vong về tá nhập qua thân nhân của người cầu.  Khi vong về có vong thì cười nói uyên thuyên và khuyên nhủ gia đình, có vong những người chết trên biển cả do bị hải tặc hảm hại giết chết thì về trong hình dáng đau đớn lạnh giá, có vong thì đau khổ khóc than thương nhớ gia đình, có vong thì đang trong cảnh tù tội với hình dáng bị gông cùm, có vong về  giận dữ đầy oán hận chỉ mong muốn trả thù, có vong về thì chỉ gật gù lắc lư không nói một lời nào(?)…

Nói chung thì ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, đa số các vong linh về đều khuyên thân nhân làm điều phước thiện để hồi hướng công đức đến cho họ để sớm được siêu thoát.

Trở lại vấn đề “cầu hồn nhập xác” trong trường hợp này thì tác hại vô cùng nguy hiểm!  Nếu là thật trong sự kiểm soát của chư vị trong thế giới vô hình thì không sao còn nếu không thì hậu quả không lường!  Có ai dám quả quyết rằng tất cả đều nằm trong sự giám sát của chư vị và chư vị đó là ai?

Quí độc giả cũng nên nhớ rằng thế giới ma quỷ cũng có thần thông, rủi như người vô hình cai quản tông phái đó thuộc thế giới của ma vương thì những ai đã nhập vào thân xác người mong cầu?  Và đối với những người không am hiểu thì làm sao họ có thể phân biệt được chánh tà?

Có người nói rằng vong đó đúng là người thân của họ vì vong nói rất đúng những gì xảy ra trong gia đình.  Cũng nên lưu ý rằng thế giới vong linh ma quỷ cũng có thể biết được những gì đang xảy ra trong xác thân người bị nhập qua A lại da thức (tàng thức) của người đó.  Có một lời góp ý cho những ai đã tin như vậy thì nên yêu cầu vong cho biết thêm về dóc váng, tên tuổi để xác định rõ ràng hơn.

Điều nguy hiểm nhất của việc tá nhập vào thân là vô tình người mong cầu đã tình nguyện mở cánh cửa âm dương trong người để vong linh tá vào.  Nên nhớ rằng, trong thế giới chúng ta đang sống có biết bao vong linh và ma quỷ đang sống khổ sở không nơi nương tựa, đang tìm nơi trú ngụ và cũng để thỏa mãn dục vọng thèm khát.  Cõi trung giới cũng có biết bao người cũng muốn nương xác trần để truyền đạt tư tưởng kiến thức của họ cũng như muốn được sùng bái kính nể…

Một khi đã mời họ vào xác thân một lần rồi thì có gì bảo đảm rằng họ không đến nữa?  Nhất là một khi đã vào trong xác thân thì vong như đã tìm được một căn nhà mới ấm áp để trú ngụ thử hỏi họ có muốn ra đi hay không?

Còn một điều bí mật trong sự “cầu hồn nhập xác” mà ít người biết đến đó là còn có sự tác động của thầy, tổ và… (?) trong thế giới vô hình đang điều khiển tông phái đó cho nên tưởng có vong về mà không phải vong!

Vì lợi ích cho chúng sinh nên nếu có điều chi không đúng, kính xin chư vị bỏ qua cho vì xã hội ngày nay chánh tà lẫn lộn khó mà phân biệt.

Có người hỏi rằng trong trường hợp nào mới nên “cầu hồn nhập xác”?

Xin trả lời có thể nằm trong 2 trường hợp sau đây:

Người đã bị vong /ma quỷ nhập

Trong trường hợp này, vong đã ở trong xác thì có triệu hay không triệu cũng không khác gì, triệu hồn ra để tìm hiểu oan khiên mà tìm cách hóa giải và siêu độ.

Người được vong báo mộng nhiều lần hoặc tạo hiện tượng trong nhà từ nhẹ đến nặng như một hình thức nhắc nhở.  Tốt nhất nên dùng đồng tử của tông phái đang thực hiện.  Đối với tông phái mật tông họ có thể dùng “Nhãn” và “Ý” để tiếp xúc.

Tóm lại qua bài viết này người viết chỉ muốn chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức và trình bày những nguy hiểm có thể xảy ra từ việc “cầu hồn nhập xác” nhiều hơn là ích lợi thật sự có nói chung - nếu như người cầu mong không hiểu rõ đúng mục đích của sự việc, chứ không nhầm đả phá một ai, một tổ chức nào.

Chớ nên “cầu hồn nhập xác” nếu như không hiểu rõ tường tận và không có nhu cầu thiết thực.

Biết rằng trong số những người đang làm việc trong lãnh vực này cũng có một số người với tâm rất tốt mong muốn được giúp đở người đời trong sự hiểu biết của mình để tạo công đức, tuy nhiên nếu không biết rõ “người đang hướng dẫn mình”  là ai?    Không khéo vô tình lại làm hại người khác thì công tội nặng nhẹ ra sao xin tự vấn lấy?

Đôi lời góp ý: nếu như không do công phu tu hành thật sự của mình mà có thì hễ có vay hoặc nhờ cậy ai thì ắt có lúc phải trả!  Trả bằng cách nào?  Vật chất hay lý trí tâm linh?  Sẽ có người không đồng ý với quan niệm này và cho rằng đó là phương tiện mà chư vị ban cho để làm việc giúp bá tánh.  Đúng hay sai còn tùy theo tông phái chánh hay tà thực hiện.

Trong thời mạt pháp hiện nay thì thật hư, chánh tà lẫn lộn, ma quỷ thì gian ác mà người thời nay sống chẵng khác gì ma quỷ (xem những gì đang xảy ra trong đất nước Việt Nam hiện nay): xác người tâm ma, đa số sống với tâm đạo thấp hèn, mưu mô xảo nguyệt, lòng đầy gian dối vì tư lợi kiếm danh kiếm tiền mà bất chấp mọi thủ đoạn kể cả việc buôn thần bán thánh.   Ma quỷ thì giả thánh giả thần để thọ hưởng nhang khói cúng dường, gạt gẫm người u mê khiến lòng người ngày càng xa dần chánh pháp đi vào con đường ma đạo làm khí chơn dương bị suy giảm.

Biết được, hiểu được sự nguy hiểm của cầu hồn, cầu… nhập xác thì tuyệt đối nên tránh xa để khỏi rước họa vào thân!  Dẫu người giáng nhập cho là thánh thần, tiên, phật đi nữa cũng tuyệt đối không bao giờ tiếp nhận vào thân vì làm sao biết họ thật sự là ai? Vã lại thánh thần tiên phật cũng không bao giờ muốn tá nhập vào xác thân đầy ô trược của phàm nhân ngoại trừ một số có linh căn tiếp điển trong những tông hội huyền bí… Và cũng tuyệt đối không bao giờ đem thân mình cho người khác khai mở bất cứ gì mà không am hiểu rõ ràng hay mở ra để làm gì? Đừng biến thân xác mình thành nơi trú ẩn cho ma quỷ hay thành diễn đàn cho khách vãng lai ở cõi trung giới!

Bài viết trên nếu có điều chi còn thiếu xót kính mong các bậc chân sư và quí đạo hữu góp ý bổ túc để cho những ai xắp “cầu hồn nhập xác” hiểu thấu sự tình mà xa dần những điều nguy hiểm cho bản thân.

Xin nguyện hồi hướng công đức này đến với tất cả khắp pháp giới chúng sinh.

Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát Ma ha tát.

Mùa Thu 2017

Phương Chính Nguyễn Quang Đạt

www.duongsinhthucphap.org

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Đúng vậy, sau gần nửa thế kỷ năm nhìn lại vẫn thấy biến cố 30.04.1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Bằng chứng hiển nhiên là rất nhiều cấp lãnh đạo VNCH trong chánh quyền và trong quân đội không ngờ được nên đành phải bị bắt đi tù cải tạo cả hàng chục năm để rồi chết dần mòn trong rừng thiêng nước độc. Nói chi đến người dân bình thường thiếu thông tin của cả 2 miền Nam Bắc tất cả không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra. Sự thực này chúng ta có thể đọc thấy rõ trên các tài liệu của 2 miền.
Chúng ta chỉ cần vài thập niên để có thể tạo dựng lại một nền kinh tế lành mạnh và hiệu quả nhưng e sẽ mất đến đôi ba thế hệ mới loại bỏ dần được những thói hư (và tật xấu) vừa nêu. Vấn đề không chỉ đòi hỏi thời gian mà còn cần đến sự nhẫn nại, bao dung, thông cảm (lẫn thương cảm) nữa. Nếu không thì dân tộc này vẫn sẽ tiếp tục bước hết từ bi kịch sang bi kịch khác – cho dù chế độ toàn trị và nguy cơ bị trị không còn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.