Hôm nay,  

QUỐC HIỆU NƯỚC VIỆT QUA CÁC THỜI ĐẠI (2879 TCN - 2017 SCN)

25/07/201710:32:00(Xem: 6186)
Quốc hiệu của nước ta (Việt Nam), với thời gian gần năm nghìn năm (4.896 năm = 2879 TCN+2017 SCN), sử liệu đã ghi những Quốc hiệu nước Việt qua các thời đại như sau: 
 1- Xích Quỷ: Theo cổ sử, Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (nay Hồ Nam, nước Tàu) kết hôn với con gái bà Vụ Tiên, sinh một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc. Và phong Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương vào năm 2879 (TCN), quốc hiệu là Xích Quỷ, lãnh thổ rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử, phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục (nay là tỉnh Tứ Xuyên nước Tàu). Dân số vào thời Văn Lang được ước tính khoảng 500.000 người. Kinh Dương Vương là thủy tổ của người Việt. 
 2- Văn Lang: Văn Lang là quốc hiệu thời Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ, truyền được 2.622 năm (2879 TCN-258 TCN), gồm có: “18 Chi với 47 Đời Vua”. Một đời vua trị vì trung bình 55 năm là đúng (2.622/47), không thể một đời vua trị vì 145 năm (2.622/18). Lãnh thổ Văn Lang: Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến Động Đình hồ, nam giáp nước Hồ Tôn (tức Chiêm Thành).
 3- Âu Lạc: Năm 221 (TCN), Tần Thuỷ Hoàng cử quân xâm lược nước ta. Thục Phán đã liên minh được các bộ lạc Âu Việt, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Tần. Năm 208 (TCN), đánh đuổi được quân Tần ra khỏi bờ cõi. Thục Phán lên ngôi làm vua, đế hiệu là An Dương Vương. Nước Âu Lạc được hình thành với sự sáp nhập bởi 2 lãnh thổ Văn Lang (Lạc Việt) và Âu Việt. Địa bàn chính của nước ta khi ấy nằm trên ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nước Âu Lạc tồn tại 50 năm (257 TCN-207 TCN). Dân số cuối thời Âu Lạc, vào năm 210 (TCN) có khoảng 600.000 người.
 4- Nam Việt: Quốc hiệu Nam Việt vào thời nhà Triệu trị vì là 96 năm (207-111 TCN), lãnh thổ Nam Việt gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (nay thuộc nước Tàu) và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Dân số thời nhà Triệu có khoảng 670.000 người. Kinh đô ở thành Phiên Ngung ở Quảng Châu (nay thuộc Quảng Đông nước Tàu). Có người nêu rằng Triệu Vũ Vương tổ tiên ở châu Chân Định (Tàu) nên không chính thống?! Nhưng khi xưa người Lạc Việt sống ở phía Nam bờ sông Dương Tử (nay đất Tàu) sau đấy bị người Hoa Hạ xâm chiếm. Ngoài ra, thời Triệu Đà các quý tộc bản xứ vẫn được giữ thái ấp. Thế nên, nhà Triệu cũng là chính thống vậy. Sau khi quân Hán chiếm được Nam Việt đổi ra Bộ Giao Chỉ.
 
 5- Vạn Xuân: Là quốc hiệu nhà Tiền Lý (Lý Nam Đế: 503-548) và Triệu Việt Vương (544-602 SCN). Dân số vào năm 544, khoảng 1.000.000 người. Sau đấy bị nhà Tùy xâm lược.
 6- Đại Cồ Việt: Đinh Tiên Hoàng (968-979) đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt vào năm 968, kế đến nhà Tiền Lê (980-1009). Quốc hiệu này tồn tại 86 năm (968-1054). Dân số nước Đại Cồ Việt vào năm 968 có khoảng 2.000.000 người.
 7- Đại Việt: Năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi lấy quốc hiệu là Đại Việt, dân số nước ta lúc ấy khoảng 2.200.000 người. Lãnh thổ gồm Bắc Việt hiện nay và một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (nước Tàu), phía nam tới Hà Tĩnh ngày nay. Quốc hiệu Đại Việt không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, cộng lại 27 năm). Cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Lê Lợi, sau 10 năm (1418-1428) chiến đấu được toàn thắng, lấy lại quốc hiệu Đại Việt. Nước Đại Việt đã qua các triều đại: Nhà Lý: 215 năm (1010-1225), Nhà Trần: 275 năm (1225-1400), Nhà Hậu Lê: 100 năm (1428-1527), Nhà Mạc: 65 năm (1527-1592), Nhà Lê Trung Hưng: 255 năm (1533-1788), Nhà Tây Sơn: 14 năm (1788-1802). Quốc hiệu Đại Việt tồn tại 723 năm (1804- 1054-27). Đến năm 1804 lấy quốc hiệu là Việt Nam.
 8- Đại Ngu: Khi Hồ Quý Ly làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, quốc hiệu này tồn tại 7 năm (1400-1407). Khi Lê Lợi lên ngôi, quốc hiệu Đại Việt được dùng lại. Và Dân số Đại Việt thời Lê Thánh Tông (1490) khoảng 4.000.000 người.
 9- Việt Nam: Năm 1804, vua Gia Long cử Lê Quang Định đi sứ sang Tàu xin lấy quốc hiệu là Nam Việt, chữ "Nam" là "An Nam" ở phương Nam và "Việt" có ý là "Việt Thường". Nhưng quốc hiệu Nam Việt lại trùng với Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây nước Tàu. Nhà Thanh ngại lẫn lộn, đổi ngược lại là Việt Nam. Lãnh thổ Việt Nam phía bắc giáp ải Nam Quan, phía nam giáp mũi Cà Mau. Dân số Việt Nam vào năm 1804, có khoảng 5.780.000 người.
     Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào năm 1804, nhưng tham khảo qua một số sử liệu và tài liệu, tên gọi Việt Nam đã xuất hiện nhiều lần trước đấy khá lâu. Trong cuốn Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi (1380-1442) có nói đến hai chữ "Việt Nam". Tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay lời mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Ngoài ra, bia Thủy Môn Đình ở biên giới Lạng Sơn, do Đô đốc phủ Lạng Sơn là Nguyễn Đình Lộc soạn năm 1670, thời vua Lê chúa Trịnh. Dòng đầu tiên của bài minh nơi bia đã viết “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan”, có nghĩa là: “Đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc”.  
 10- Đại Nam: Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý một nước Nam rộng lớn, nhà Thanh không tán thành. Dù vậy, đến ngày 15-2-1839, vua Minh Mạng vẫn chính thức công bố quốc hiệu là Đại Nam. Dân số Việt Nam vào năm 1840 có khoảng 7.764.000 người. Quốc hiệu Đại Nam tồn tại đến năm 1945.
 11- Đế quốc Việt Nam:  Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Sau đấy, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập, xé hòa ước Patennôtre (1884) đã ký với Pháp, mời học giả Trần Trọng Kim lập chính phủ “Quân chủ lập hiến” ngày 17-4-1945, tồn tại chỉ được 5 tháng (17-4-1945 đến 25-8-1945). Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị ngày 25-8-1945, Đế Quốc Việt Nam chấm dứt. Dù thời gian ngắn ngủi, Chính phủ Trần Trọng Kim đã làm được nhiều việc hữu ích: Thả hàng ngàn tù nhân chính trị của các đảng phái, trong đấy có đảng viên cộng sản đã bị Pháp giam giữ. Cứu đói dân miền Bắc “Nạn đói năm Ất Dậu: 1945”. Một việc làm rất ý nghĩa do học giả Hoàng Xuân Hãn đề ra: Thay chương trình giáo dục chữ Hán và Pháp qua Quốc ngữ. Từ đấy, chương trình giáo dục bằng Việt ngữ được dùng sau này. 
12- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: VNDCCH là tên gọi của nhà nước miền Bắc Việt Nam, từ năm 1945-1976. 
 13- Quốc gia Việt Nam: QGVN là danh xưng của toàn nước Việt Nam, từ khi Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại ký Hiệp ước Elysée ngày 8-3-1949. Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955).
 
 14- Việt Nam Cộng hòa: Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại miền Nam Việt Nam. Dân số Việt Nam vào năm 1962, có khoảng 31.275.000 người (miền Bắc: 17.000.000 và miền Nam: 14.275.000). Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào năm 1975. 
 15- Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Ngày 2-7-1976, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đổi tên thành Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên toàn quốc cho đến nay (2017). Dân số Việt Nam hiện nay (2017) khoảng 95 triệu người.
 *- Giao Chỉ đổi thành Giao Châu (Năm 203 SCN): Sau khi Mã Viện đánh thắng Trưng Vương, đất Giao Chỉ thuộc về nhà Đông Hán, phủ trị đóng ở Mê Linh, đến cuối thời Đông Hán dời về Long Biên. Năm Quý Mùi (203), “Sĩ Nhiếp xin đổi tên Giao Chỉ thành Giao Châu, vua Hán chấp thuận.
 *- An Nam: Tên gọi là An Nam có nguồn gốc từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị người phương Bắc/Tàu đô hộ), nhà Đường đặt vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673-757 và 768-866). Và danh hiệu An Nam Quốc vương xuất hiện từ năm 1164, thời vua Lý Anh Tông, do sứ thần Đại Việt là Doãn Tử Tư yêu cầu vua Tống. Từ đó, người Tàu thường gọi nước ta là An Nam. Trước năm 1945, người châu Âu (thời Pháp thuộc), người Pháp gọi Annam để chỉ người Việt cho cả 3 miền: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam, vì có triều đình Huế) và Nam Kỳ (Cochinchine).
     Cảm tưởng: QUỐC HIỆU VIỆT NAM
 
     QUỐC gia bền vững, vẹn toàn mong
     HIỆU chỉnh sửa sang, tha thiết lòng
     VIỆT tộc, giống nòi lưu luyến mến
     NAM phương, bờ cõi giữ gìn trông.
 
Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.